18


Những
việc gì xảy ra

Từ năm 1939 đến năm 1943



(Tôi được chứng kiến)

Tôi đã tiêu đầu lạn ngạch, tức làm việc cháy đầu phỏng trán, tức chịu khốn chịu khổ đủ mọi cách, hoặc nói theo lời bà thân ông kỹ sư Nguyễn Khắc Trương ở gần bên nhà, bà thường dùng câu nà tôi không hiểu nghĩa "cực trần ai lai khí" (?), mới về "gần mặt trời", và "về làm dâu nơi dinh Thống đốc Nam Kỳ” với chức thơ ký hạng nhứt (secrélaire de premiere classe), sau khi “lăn tròn cục bướu" khắp đó đây suốt mười sáu năm trời luân lưu nhiều chỗ:

- 5 năm Trường Máy đường Đỗ Hữu Vị (nay là trường Cao Thắng) (1923-1928)
- 4 năm công táp phát ngân toà bố Sa Đéc (mấy năm vui nhứt vì còn trong tuổi xuân xanh) (1928- 1932)
- 4 năm sở Địa bộ quê nhà, Sốc Trăng, báo ân báo hiếu cho cha mẹ... (1932-1936)
- 3 năm toà bố Cần Thơ, đứng bàn ông chánh (thông ngôn quan chánh bố) làm giàu dễ ợt nhưng tôi không màng, một mực làm theo lương tâm, ăn ngay nói thẳng. (1936-1939)

Gọi "gần mặt trời" vì làm với đầu xứ; gọi “làm dâ
n" vì làm đây cực nhọc và phải cho kín miệng, động một chút là bị đổi đi xa bất tín dụng luôn nhưng được chút an ủi là thêm lương mỗi tháng mười lăm đồng gọi tiền xúp (supplément) duy phải làm mỗi ngày thêm một giờ, như trưa ra sở 12 giờ thay vì 11 giờ 1/2 và chiều trễ tới 18 giờ thay vì về từ 17 giờ 1/2 như các sở khác.

Lúc đầu tôi làm "dâu phụ", "dâu ghẻ", vì còn chờ ở trên giám nghiệm tôi về khả năng. Vì vậy mấy tháng đầu, tôi được bổ làm phụ tá cho một thơ ký nhỏ tuổi hơn tôi và đó là thơ ký công nhựt Dương Văn Minh sau làm đến đại tướng. Ông Minh, nầy là người rất dễ thương và vốn dòng lễ giáo nho phong. Ông là nhỏ nhất trong dinh, và trừ vài người đồng chạn, các nhân viên đều là "chú của Minh", vì đều như tôi, bạn đồng liêu đồng ty với cha của Minh, là đốc phủ Dương Văn Mau. Tôi nói Minh rất dễ thương là thật sự và không có ý nịnh bợ. Sau nầy, cách nhau hơn gần chục năm, Minh làm đến tướng, vinh quang và lừng danh với chiến thắng vào Rừng Sác rượt Bảy Viễn và trận sanh cầm tướng Ba Cụt nơi cánh đồng Chắc Cà Đao.

Một buổi sáng lối năm 1948 nơi Chợ Trời bán chim bán chó đường Hàm Nghi, Minh gặp tôi, ôm choàng lấy cổ như hai bạn thiết cách mặt lâu ngày, tuy vậy "kính nhi viễn chi", tôi thủ phận "hưu viên trưng dụng trở vô làm ăn lương công nhựt”, bấy lâu không lại gần ông tướng suý nầy, vì xét phận mình, gần thần gần cây da, bóng mát thật, nhưng rủi cây da ngã, đè chết có ngày! Và an phận thủ thường là hơn.

Minh lúc ấy coi về công văn từ các tỉnh gởi lên và từ các ty sở khác (divers services) gởi về. Công việc dồn dập chồng chất không làm xuể, nên tôi được, buổi chân ướt chân ráo nhận việc, cấp làm phụ tá cho Minh. Ông Minh chia cho tôi coi về công văn các sở, và giữ lại công văn các tỉnh hạt có phần ít và khỏe hơn, Minh có một cách làm việc thực tế lắm. Trong khi tôi là một thơ ký già làm việc theo lề lối xưa, nai lưng kệch đi đúng giờ và đúng khắc và cong lưng ghi chép nhón và cho số thứ tự hết tất cả công văn thu nhận rồi gởi lên đãi lịnh bề trên là ông đốc phủ xếp ở lên lầu, Minh chê rằng làm như vậy đã mệt mỏi mau chết mà cũng chả ai khen, cho nên Minh đổi phương pháp lại theo ý riêng và chỉ lựa nhón những công văn khẩn cấp và thiết yếu, thì Minh mới ghi vào sổ, cho số thứ tự và bổn thân xách tay lên giao quan đốc phủ, kỳ dư công văn còn lại và Minh cho rằng "không gấp" thì Minh chôn vào nhiều ngăn và hộc tủ có đánh số cẩn thận tỷ dụ như “S” là Sốc Trăng, Sa là Sa Đéc, vân vân, rồi lần lần rỗi rảnh và thong thả Minh sẽ lấy ra ghi sổ, còn lại bao nhiêu thì giờ dư thì Minh sẽ lén dùng để thả xích phê ngoài chợ nhứt là trên đường d Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) ở sát mé sau dinh. Tuy vậy không một ai phàn nàn Minh vì Minh rất biết điều, trong lúc thả rong chơi làm vậy là Minh lấy tin tức về cá ngựa cho "Chú Thân" "Chú Inh" là hai thơ ký đánh máy về ngựa trường đua như mê đào hát và tuần nào cũng cúng tiền mua cỏ cho ngựa côn hơn công tử chạy tiền cho các cô gầy sòng. Đối với tôi, Minh cho tin tức về hát bóng, tuần nào và rạp nào hát những tuồng gì, và Minh có một câu rất mát ruột: "Chú Sển à, tuần nầy Eden hát tuồng hay, không xem thì uổng lắm. Chú để đó tôi làm giúp cho và chú "nhảy dù" đi xem đi kẻo tiếc”. Hoặc giả, đến phiên Minh nhờ tôi và rằng: "Chú coi chừng tiệm giùm tôi, tôi bữa nay lén đi xi-nê một chuyén!:.

Hai chú cháu tôi làm việc đang tương đắc, bỗng Minh bị bắt đi quân dịch. Tôi cũng vừa mãn kỳ làm dâu, được lên lầu làm chung với các bạn và được giao chỗ quan trọng là coi về công văn mật (courrier confidentiel), sau coi luôn về việc dịch các điện tín mật mã (télégramme chiffré). Hai chú cháu bịn rịn chia tay không đành, nhưng Minh từ ấy công danh đốc lộ đi học trường thiếu sinh (école des cadres) vì có tú tài Pháp văn, dư trận chiến Thái Miên vùng Battambang, trở về đóng lon quan hai (trung uý), rồi lần lần lên tột bực làm đại tướng, người hùng một thuở và tương lai hậu vận còn chưa biết được. Vẻ vang thay, Minh.

Tôi nhờ lên lầu, làm quen và kết giao với nhiều bạn mới, nay kẻ mất người còn và không còn nhớ nữa, như:

- Xếp trên hết công chức Việt là ông đốc phủ sứ Phan Văn Ngô, nhà ở Phú Lâm, đường quốc lộ số 4, treo bảng đề “Villa An Phong”, tức “ông Phan” nói lái lại. Ông là một người đức hạnh, trọn đời không nhận của hối, sáng đi xe lửa Mỹ Tho lên, làm việc cho đến trưa, sai tuỳ phái mua một tô hủ tíu, ăn nửa tô với cơm, nằm nghỉ lưng một chút với một tờ báo mượn nơi phòng báo chí (bureau de la Presse), chiều tối đi bộ ra sở lần đến ga xe lửa Mỹ, lên xe về nhà, và luôn luôn như vậy suốt mấy chục năm trời, không thay đổi tánh. Ai dám nói quan lại đời Tây Tà toàn là tham ô? Một giai thoại đáng tức cười là một khi nọ có một anh tuỳ phái kia mới đổi lại nơi nầy chưa biết ý quan, gặp trưa thứ bảy, anh được quan sai đi mua một tô hủ tíu và bốn chén cơm trắng, khi dọn cho quan "thời", thấy quan chừa nửa tô và hai chén cơm trong bụng phất cờ tưởng quan tử tế cho mình "hầu tàn" anh chàng lấy tô chạy lăng xăng mua trà Huế cho quan dùng, bỗng nghe quan dặn: "Cất mấy cái nầy, chiều tôi ăn rồi sẽ về”. Ấy quan nhờ tiện cặn mà cũng sắm ruộng Phú Lâm như ai và đâu cần hối lộ, chỉ tôi nghiệp anh tuỳ phái thua ngựa, chỉ rửa chén cho quan như mấy anh khác chớ không hơn? Tôi giữ đối với ông Ngô, một lòng kính cẩn và ông là người đức độ, khi rầy la cũng nhỏ nhẹ, nhưng lời nói đoan trực làm cải hối được nhiều người.

Phụ tá cho ông Ngô, là ông đốc phủ Nguyễn Văn Bá, người gốc ở Cái Bè (Mỹ Tho), lúc học Chasseloup, trên tôi ba lớp, ông lớp 4c année gần ra trường thi tôi mới vô lớp 1ère année. Ông người đức hạnh, học trường hành chánh ở Hà Nội về suốt đời làm ở Sài Gòn, và không đổi đi lục tỉnh, vì tánh ông không ăn hối lộ. Ngộ nhứt là suốt đời làm quan, ông chỉ sử dụng có một cây bút chì, loại một đầu xanh một đầu đỏ, buổi ấy chưa có loại atomic BIC như nay, vì ông là trưởng phòng công văn cơ mật và thông thường, các thơ ký dâng lên ông, ông chỉ xem kỹ rồi dùng bút ghi mấy chữ lặp đi lặp lại mãi những ngày nầy tháng nọ, tỷ như: M.S. Cl., có nghĩa là "Ông S. Cất luôn (classer)" vào hồ sơ, hoặc giả như:

- "sortie", tức công văn đã xem, nay không cần trình lại;
- "entrée", tức công văn cần ghi chép chỉ thị dặn xong rồi cho trở vô đãi lịnh lần nữa;
- "sortie définitive", tức công văn đã giải quyết xong.
- "entrée définititive", tức công văn phải ghi chú lời dặn rồi gởi vô quan trên (tức chánh đầu phòng của thống đốc) để quan lưu trữ vĩnh viễn, vì đó là công văn hệ trọng hoặc cơ mật, để ngoài e lậu sự.

Khi tôi biết sắp được đổi về tỉnh nhà là Sốc Trăng, tôi lưu niệm lại anh em dinh Thống đốc bằng cách đề nghị gởi lại bản dịch Việt ngữ để thơ ký và tuỳ phái khỏi lầm lộn, là ghi thêm dưới bốn danh từ Pháp văn nọ như vầy?

- entrée, tôi đề nghị dịch “cho vô”;
- sortie, dịch "cho ra";
- entrée définitive, dịch "cho vô luôn";
- sortie définitive, dịch "cho ra luôn";

Về sau, không biết có ai kẻ vạch, ông sai bỏ hết những bìa các hồ sơ có ghi câu Việt văn do tôi đề nghị, vì đọc lâu thấm mật, thấy có ẩn ý điệu Hồ Xuân Hương cái gì cho vô, cho ra, cho vô luôn rồi lại "cho ra luôn"!

Khi ấy thì tôi đã về xứ sở, dẫu trách tôi cũng không nghe. Tuy vậy ông Bá không giận, bằng chứng là sau năm đảo chánh 1945, ông gặp tôi giữa Chợ Mới Sài Gòn, ông bắt tay niềm nở làm tôi cảm động. Tánh ông rất kín miệng nhưng ông vô thưỏng vô phạt, không hại ai mà cũng ít giúp ai. Ông có một sức nhớ phi thường nhờ vậy mà ông thăng chức đều đều. Công văn chánh văn phòng hay thống đốc khi trở ra có ghi chú câu nào ông đều nhớ để bụng, một ngày nào quan muốn tìm xem lại ông biết ngay chỗ, không mất thì giờ, dẫu cách mấy năm hay cất chỗ nào ông vẫn không quên.

Ông Bá, có một bạn ba chữ "đ”, đồng liêu, đồng hương, và "địch thủ”, danh từ sau chót tuy không đúng nhưng tả rõ tâm trạng cả hai, và cả hai đều cùng một quê quán ở Mỹ Tho, đồng ngạch đốc phủ và đồng hạng, duy trở nên thù ngầm mỗi kỳ vận động xin ăn lên. Ông nào không được lên đều tam sầu bạch xác (tâm sầu bạch phát), khổ não ra mặt, cho đến khi quan Tây thấy vậy cho thăng chức cả hai thì mặt méo mới trở lại no tròn, và ông sau là ông T.M.P. tú tài Pháp học bên Pháp, bổ ngạch huyện khỏi thi, mặt trắng đẹp trai, có vợ con nhà giàu xứ Gò Công, có nhà lầu chợ Mỹ, đốc phủ sứ trật ngạch, chánh đầu phòng "phòng bản xứ chánh trị sự vụ" (doc-phu-sư de classe exceptionnelle, chen du bureau des affaires politiques indigèces, gọi tắt là bureau des A.P.I., tức sở coi về việc nổi loạn, tù chánh trị, tôn giáo v.v...).

Ông người tốt, hiền, nói tiếng Tây rất giòn, nghe đồn lúc nhỏ ông rất vất vả, nhờ người chị có nhan sắc nên ông anh rể đốc phủ hàm cho sang Pháp cùng theo học với cậu con, nhưng khi trở về, ông đậu tú tài được bổ quan, còn ông kia trở nên bầu gánh cải lương, phong lưu công tử nức tiếng một thời và tên Georges Ph...

Kể qua bạn đồng liêu trên lầu dinh Thống đốc lúc ấy còn có quý ông:

Nguyễn Hữu Hậu, sau là tỉnh trưởng Biên Hoà, lúc đó coi về công văn gởi đi không biết nay ông còn ham hút thuốc chăng, chớ thời đó, ông vấn thuốc thật khéo và thật lớn, tánh tình ông dễ dãi dễ thương.

Khi ông Hậu đi, người lại thế là ông Trương văn Thành nay ẩn sĩ ở Vĩnh Long, người hiền và đạo đức, một lòng tu thân, nên lánh xa việc thế, quan lớp Tây thuộc, ít người theo kịp ông, và trên đời ngày nay còn gì hơn là để cho quên, đừng ai nhắc đến. Hoan hô ông Thành!

- Coi về dây thép điện tín không mật là chú nhỏ Trần Văn Cự.

- Người sau lưng Cự, là A-ngành, đã nói nơi đoạn trước. Công Văn Thường.

- Ngồi ngó qua Ngành là ông huyện Hồ Văn Sĩ, sau làm tỉnh trưởng, lúc đó coi về ghi số, đề ngày, các chỉ dụ Thống đốc ký và cho ban hành (gởi đi Bà Rá là ở chỗ nầy).

- Ông đốc phủ Mau, sau tôi lên thế, coi công văn mật và điện tín mật, ngồi sát cửa ra vô phòng Phó Chánh văn phòng (Chen đe Cabinet adjoint), khít bàn ông Phú Sĩ. Nhưng ông Mau và tôi, có tiếng mà không có miếng. Ông Mau một đời thanh bạch, làm việc hết lòng, đậu hèn lâu khoa phổ thông, nhưng không qua được ngạch trên và khi từ trần chỉ khiêm tốn chức "ngoại hạng thông phán kiêm phủ danh dự" (phủ hàm). Còn tôi, xin cho nói luôn, cho đến nay tôi chỉ chánh thức một thông phán nhì hạng, đến như chức quản thủ Viện bảo tàng, thì đó là chức "lậu", không chánh thức, anh em thường tình kêu lâng giỡn chơi, và về hưu bổng ngày nay tôi lãnh cũng là hưu bổng tỷ lệ, tính theo lương phán nhì hạng, công mười bảy năm tôi cố thủ Viện bảo tàng (từ 1947 đến 1963 không tính trong hưu bổng nầy). Duy nhờ trời cho tôi sống dai, lãnh lương hưu trí từ 1944 cho đến nay, đã thay ba cuốn sổ rồi mà chưa chết, nếu cộng lại tiền lãnh được, có lẽ đã quá lời quá vốn. Theo tôi tưởng chánh phủ còn phát tiền cho tôi mãi mãi người phát tiền không khỏi nổi cáu rủa thầm tại sao tôi quá cứng cựa, không chết đâu chết phức, cho xong!

Tại sao những vật kín, ngắn bó sát chỗ kia của đàn bà lại ngự trị trong giỏ đựng giấy ở trên lầu trong dinh quan Thống đốc Nam Kỳ như vậy? Số là lúc ấy vào thời gần "tận thế" của chánh phủ đô hộ, khiến sanh nhiều quỷ dâm dục: đàn bà nhí nhảnh lúc ấy lại sẵn sàng bán rẻ chữ trinh, miễn vào đây xin được một cái bông với quan chánh hay quan phó văn phòng để khi mua vài thước hàng lụa, khi để có một cục xà bông thơm hay vài ký đường buổi khan hiếm vì Nhựt phong toả đường biển, thì "cái ngàn vàng kia" đâu có mòn mà hòng tiếc? Ông Chánh được mồi thì dắt lại phòng ông Phó và xong rồi quăng ngay nùi giẻ vào sọt giấy ngay trên đầu hai anh đánh máy Inh và Thân, vì vậy mà thua ngựa mạt cộng từ đường. Đến phiên ông Phó săn được mồi ngon, thì đưa xuống mượn phòng ông đốc phủ nơi gọi bureau des A.P.I đã nói nơi trước và mỗi lần như vậy ông dối bề trên rằng đi học và trau dồi tiếng bản xứ!

Mấy năm trước nữa, gương bày đầu làm việc trên bộc trong dâu như vậy là lão Pagès (đọc “Ba-ghè"). Lão ta rất hảo ngọt và trang trí nguyên một Bá-lạc-đài trên Thủ Đức, nay còn để tiếng.

Người tài xế cho ông, tôi còn nhớ là anh Dền, một tay lái xe tuyệt luân và cũng một tay kiếm mèo về nạp cho quan tài dách. Anh thuật với tôi mỗi lần anh dẫn một bà thì ăn còm-mi-xi-ông bằng cách viết sẵn cái "bon" mượn quan năm chục bạc. Và đợi kỳ sau rước bà ấy nữa thì chực sẵn đôi ba chục lo le xin trả lại quan. Anh Dền cười và nói mười lần như một khi xin trả mớ nhắm và hẹn trả nốt khi khác, trước mặt bà, Dền vẫn được chửi “mấy là thằng con heo" (tu es ùn cochon", nhưng chửi rồi thôi, quan không khi nào đòi tiền, và Dền nói không biết ai heo hơn ai! Nghĩ làm tài xế như Dền, tôi đây cũng muốn được như vậy, xe có sẵn người vô dầu và săn sóc, rửa xe có người ở trường máy rửa sẵn, bánh lốp vừa nửa sạc ông Rosel đã lo thay cái mới, và sướng nhứt là mượn tiền thống đốc xài mà không bao giờ trả! Tôi hỏi Dền thay vỏ xe chi thay hoài, Dền đáp quan thường đi hứng gió ngoài Cấp với các bà, giao trong hai giờ phải chạy đến nơi, thường chạy hết tốc lực tám chục cây số một giờ (xe hiệu Delate số C.20), nếu không thay vỏ, rủi chậm trễ thì mất chức, vả lại của ông của cha gì tôi mà tôi tiếc.

Ông Ba ghè (Pagès) nầy có tiếng là thống đốc khó tánh, oai nghiêm và khinh người hơn các ông trước. Ông nghe tiếng quan đốc phủ Đ.N.C là lỗi lạc hơn người, làm đầu phòng nhơn ty (chef de section au bureau du Personnel) trong nhiều trào Thống đốc, ông dẫn theo một vòng lục tỉnh bắt làm thông ngôn, nhưng từ ấy không thấy mời đi nữa, ngầm hiểu lục lục thường tài. Ba ghè mặt sắt như vậy, thế mà trái tim là của một con dê xồm.

Dinh Gia Long, trước kia là dinh Thống đốc nơi phía mặt tiền, chỗ nầy sau lấy làm văn phòng cho ông tổng Diệm, thì lối năm 1936 là phòng giấy bu-rô ông Ba ghè. Cố nhiên, phòng nầy nghiêm mật, năm thì mười hoạ có người thật tai mắt mới được quan soái tiếp. (Soái là tiếng thông thường để gọi ông, vì Thống đốc nghe chưa oai). Nhưng có một người được ra vô thong thả, không cần gõ cửa xin phép, và đó là chỉ có một ông quản vệ uy tín cẩn nhứt, các ông đốc phủ cũng nhường bước sau ông và đó là ông Vệ Kỳ. Ông Vệ Kỳ, ngày thường, luôn luôn o bế một cái mâm nhỏ bằng gỗ cẩm lai, lâu lên nước bóng láng đỏ như nhuộm son, lớn cỡ 0,20 x 0,15; khi tôi thấy vật nầy thì vì lòng hiếu cổ tôi ước ao muốn lắm, vì là vật cổ tích của nhiều trào phó soái, đã có từ đời Tây mới qua đây, (theo lời Vệ Kỳ). Tôi cố ý nài hoài xin đổi với một cái mâm khác, có lẽ tốt hơn và tiện hơn mâm cũ nầy, nhưng Vệ Kỳ khăng khăng một mực từ chối, rằng sợ quan biết sẽ phạt nặng. Cái mâm ấy, tôi quên nói, dùng để đựng thơ từ quan trọng cần dâng lên phó soái, và mỗi ngày Vệ Kỳ đều có dùng, và sở dĩ tôi muốn đổi để làm của, vì tôi cho cái mâm ấy là một lưu vật biểu hiện của mấy trào nô lệ thời Pháp thuộc. Nhưng nếu tôi cà kê như vậy mãi e lạc đề, vậy xin nhắc lại một bữa sáng chúa nhựt kia, tôi đến phiên trực nên như thường lệ tôi phải vô làm việc, mặc dầu tuồng xi-nê hôm đó hay lắm. Đến trưa ông Vệ Kỳ ôm công văn xuống giao cho tôi, nhưng tôi để ý và lấy làm lạ, vì mặt ông Vệ không còn một chút máu, xanh như tàu lá, xanh thấy sợ. Tôi với ông là chỗ thâm giao, nên tôi vội hỏi dồn và lo lắng cho ông. Nhưng ông cứ lắc đầu không trả lời. Hỏi han không nói, đến lượt tôi van xin cầu khẩn một cách thật tình. Hỏi mãi Vệ Kỳ chỉ rưng rưng nước mắt và trả lời xuôi xị: "Hỏi làm gì. Ông coi về confidentiel (việc cơ mật), trước sau gì rồi ông cũng biết. Tôi chắc lần nầy chết, ông à!".

Nhưng rồi Vệ Kỳ không chết. Rồi một tuần qua, một tháng qua, Vệ Kỳ vẫn sống nhăn và không thấy gì. Ít tháng sau lại đến phiên tôi trực nữa. Chuyến nầy tôi theo bên lưng gạn thét, Vệ Kỳ bèn thú thiệt: "Hôm cái ngày xui xẻo, hôm trước đó, hì hì! Tôi mắc tiêu quá nên tôi mượn thằng dịch vật là thằng Đội Cửu, đứng coi giùm cửa ông Lớn hộ tôi vài phút. Cửu nó lên ngồi chỗ tôi, tôi thì chạy xuống cầu tiêu xong rồi trở lên liền, dịch vật thằng Cửu nó không nói gì, nên tôi yên tâm cứ phận sự mà làm. Một lát kế đó tôi nhận được một bức công văn thượng khẩn để trong bì thư có con dấu đóng “Ultra secret” (Tối mật) và một con dấu khác "Très urgent" (Hoả tốc), hai con dấu đỏ lóe, thấy mà ghê, khiến nên tôi lật đật lấy mâm cây đặt bì thư lên trên, rồi tôi thản nhiên đến cửa vặn chốt bước vô. Rủi cho tôi là lúc ấy tôi muốn thối bộ cũng không thể nào kịp và trước mắt tôi hiện ra cảnh ông Lớn đang đứng đè cô đầm nhỏ đánh máy sát vào vách, còn miệng ông Lớn thì đang ngậm một nhũ hoa của cô đầm, và tay ông Lớn đang vò cái kia như ta vò xôi vò! Trời mẹ ôi! Khi ấy tôi sợ quá mà cũng không biết làm sao, thấy lỡ và bại lộ hết rồi! Tôi rút lui, tôi hồi hộp và lo sợ trót tháng. Bây giờ nhắc lại tim tôi còn đập mạnh và có lẽ sau nầy tôi chết vì bịnh đau tim. Tôi có trách thằng Cửu, nó chối đong đỏng, nó thề bán mạng, nó đổ thừa cô đầm vô phòng lúc nào nó không thấy, sau tôi rõ lại thằng Cửu nó không ngồi một chỗ như tôi, nó bỏ chỗ, chạy chỗ nầy chỗ kia nói dóc, và như vậy có phải thằng Cửu nó giết tôi không? May sao thời vận tôi còn đỏ, ông Lớn tốt quá, đại độ quá! Đã không cách chức tôi mà cũng không đổi tôi ra Côn Lôn cho đáng tội. Buổi chiều tôi không dám vô thấy mặt ông Lớn, và chính ông Lớn lối năm giờ mở cửa bước ra chỗ tôi ngồi cú ru, ông cười cười và nói ba tiếng tôi còn nhớ mồn một: "Ne recommence plus, Ve!" (Đừng tái diễn như vậy nữa nghe. Vệ!). Thiệt là ơn đức tái sanh tái tạo. Ông Sển nghĩ coi, tội đáng chết, lưu đày tới Côn Đảo, tôi cũng cho là chưa vừa và còn nhẹ, thế mà Tây người ta không nói gì, chớ phải như ai, mồ tổ tôi cũng không còn và có lẽ tôi đã chôn thây ngoài ấy!". 

Rồi tôi đổi về Sốc Trăng, cái mâm nhỏ bằng cẩm lai của dinh Phó Soái không biết thất lạc về đâu trong cuộc đảo chánh năm 1945, khiến nay tôi còn nhớ tiếc mãi.

Tại nhà, hiện có hai cổ vật mà đến nay mới biết giá trị:

1) Một hộp gỗ màu đỏ, trên nắp đề bốn chữ “Tấu sự, khâm giám”, mua ở Huế độ sáu bảy chục bạc, và nay mới rõ đó là "hộp đựng sớ tấu” của lục bộ đài quan, dùng dâng cho vua và trao cho nội-giám dâng lên. Người ta tốn bạc triệu mà không có vật nầy. (36cm x 25cm x 4cm).
2) Một mâm cẩm-lai 24cm x 15cm, dáng chữ Nhựt, tôi gặp nơi dinh phủ tỉnh Sốc Trăng, lúc mắc kẹt làm phó tỉnh trường lối 1946- 1947, người tuỳ phái dùng dâng thơ tín lên quan thời Pháp thuộc.

Hai vật nầy, một của triều đình Huế, một của thời Tây, theo tôi, cũng là vật hi hữu, có duyên mới gặp.

(Viết thêm 24-5-1992)

VHS

Ngày nay ngồi đánh máy cộp cộp bất kể lát nữa chết ngay trên bàn bất đắc kỳ tử cũng có thể được, bình tâm xét lại lúc làm trên dinh phó soái, buổi ấy tôi hoàn toàn hạnh phúc mà không hay biết để tận hưởng, vợ chưa ngoại tình, đồng bạc còn giá trị nhiều, tuy Nhựt có in lén bạc giấy xăng mới, và đồ ăn thực phẩm ngoài chợ chưa leo thang như hiện nay, bơ sữa chợ đen giá phải chăng. Tôi nhớ và xin kể ra đây bốn chuyện mà cho tôi rằng lạ, nếu nay không nói e lâu ngày quên phứt cũng uổng, và đây cũng không phải quốc gia trọng sự gì mà giấu kín. Duy xin các bạn cứ xem đó là giai thoại buổi mạt kiếp buổi Tây thuộc, có lẽ vì lâu ngày nếu có sai lạc đôi chút đối với sự thật, xin các bạn lượng thứ. a) Chuyện một ông Tây giỡn chơi và chơi chữ mà thành anh hùng kháng chiến; b) Chuyện cô Ba Trà nhờ giỏi khóc mà khỏi bị đày lên Bà Rá, c) Chuyện phá Khám lớn năm xưa và chuyện anh hùng ra pháp trường chịu tử hình.

a) CHUYỆN ÔNG TÂY CHƠI CHỮ TRỞ THÀNH ANH HÙNG KHÁNG CHIẾN.

Việc đã lâu, quên mất năm tháng và tên họ của nhân vật duy nhớ đại khái như vầy: Lúc Pháp thất trận, ông thống chế Pétain lên lập chánh phủ theo Đức Hitler, thì ba chữ devise (Cách ngôn, tiêu ngữ) cũ của Pháp quốc "Liberté-egalité-fraternité tức Tự Do (liberté), Bình đẳng (Egalité) Bác ái (Fraternité), được đổi lại là:

Travail, tôi dịch cho thật nôm na là "Làm việc" (cần lao)
Famille, tôi giữ ý sát nghĩa và dịch gọn "Gia đình"
Patrie, tôi cũng dịch gọn là "Tổ quốc".

Lúc ấy đã có chế độ kiểm duyệt thơ tín (contrôle postal), cho nên một hôm sở bưu điện gởi lên thống đốc một bức thơ nhận được của một người Pháp gởi cho một bạn thân cũng Pháp, trong thơ tác giả chơi chữ và nhạo giễu ba chữ tiêu ngữ mới của chánh phủ Pétain đầu hàng Đức, như sau:

Tiêu ngữ
Việt ngữ Bị đổi là Dịch là
Travail Làm việc Trahison Làm phản
Famille Gia đình Forfaiture Gia tâm
bạn nghịch
Patrie Tổ quốc Pourriture Thúi nát

Trộm nghĩ đó là một cách giỡn chơi giữa bạn thân, nói lén chánh phủ để mua cười trong buổi bị phong toả vì chiến tranh, và cũng có một phần nào khoe mình là tay giàu văn chương, hay chữ hay nghĩa. Dè đâu giỡn chơi thành thật, ông toàn quyền Đờ-cu không cho là giỡn, và chỉ thị sai thống đốc ký nghị định bắt tác giả đày vào trại phạm nhơn chánh trị ở Long Xuyên (centre d internement politique à Long Xuyên). Và đến khi trào Pétain đổ tác giả được phóng thích và chẳng như vậy, được tôn trọng như một anh hùng kháng chiến, dám ăn dám nói.

b) CHUYỆN CÔ BA TRÀ

Ngày nay thanh niên chỉ thấy mỹ nhân phần nhiều là giả, là độn, là nhân tạo. Ngày xưa muốn xứng đáng danh từ “mỹ nhân”, phải hoàn toàn là thứ thiệt, răng sún hay có một tí thẹo nhỏ ở chỗ nào cũng không được. Cô Ba Trà thuộc vào hạng ấy. Lối năm 1939, một hôm cô bị bắt và sở mật thám Catinat định tống giải cô lên Bà Rá là nơi đày tù bản xứ làm chánh trị hoặc phạm tội làm bại hoại phong tục nề nếp xưa như tình trạng Cô Ba. Nhưng cô nài nỉ viên thanh tra Pháp khéo thế nào mà cô được dẫn dắt lên quan chánh văn phòng trước khi lên đường đi Bà Rá, nếu cô có tội.

Chánh văn phòng là tham biện nhứt hạng, Dufour, tôi sẽ nói sau, ông có tiếng là tay háo sắc, nhưng thật là người có tánh tốt nhất là thẳng thắng và cương trực, dám ăn dám làm. Cô Ba Trà cặp mắt lưng tròng đo đỏ, hai khóe mũi cũng đo đỏ, được tha ngay, vì ông Dufour hoàn toàn đồng ý với cô: một là cô không khuyến dụ, hai là cha phải nghiêm dạy con trước khi thưa con bị gái làm hư; ba là đây là ý nghĩ riêng của ông chánh văn phòng háo sắc nầy, một người đẹp như cô không thể gởi đày lên Bà Rá.

Tôi giả đò ra xả hơi nơi hành lang để cho người đẹp thấy rằng thằng nhỏ hôm trước đi xe hơi bòm Fiat C. 9032 chung với Thầy Ba Kính, nhạc gia nó, chính là thằng nầy, làm việc dinh phó soái đây! Hôm ấy ra cửa đi về có ba người - người sau bị ám sát góc đường Tự Do và Lê Thánh Tôn là cò Bazin, một lần thứ nhất phải giấu cái còng sắt trong túi, vì lịnh thống đốc, ký trước, đề tên sau vẫn vô hiệu lực trước một mỹ nhân.

Người ra kế, khi vô là cực phẩm đại thần, nghị viên cơ mật viện (membe du conseil privé); khi ra là người thua kiện! Con ông làm lục sự tên Trường, ông không biết dạy, ông đòi bỏ tù ai? Ông tên Tống, dòng Trương Vĩnh.

Người thứ ba là cô Ba Trà, khi vô là một bị cáo mắc nàn, khi ra là một bà hoàng, được ông Chánh văn phòng Dufour tiễn ra tới cửa. Ô! là! là! Sắc đẹp.

c) CHUYỆN PHÁ KHÁM LỚN SÀI GÒN NĂM ĐÓ, TIẾP THEO LÀ VỤ XỬ BẮN 13 NGƯỜI TÙ CÓ TỘI LÀM CHÁNH TRỊ, TỘI CHỐNG PHÁP.

Tôi đã làm mất hồ sơ nầy trong chuyến chạy giặc Pháp năm 1946 tại làng Hoà Tú (Sốc Trăng), nên nay chỉ ghi chép lại theo trí nhớ và không ghi được chi tiết khoa học về năm tháng xảy ra cùng tên tuổi người đương sự, hay người quan hệ. Xin độc giả lượng thứ. Theo tôi định chừng thì việc nầy xảy ra sau khi Pháp khai chiến với Đức quốc và khoảng những năm có quân đội Phù tang để chân lên đất Đông Dương nầy. Lúc ấy lịnh của chưởng lý dạy canh phòng thật nghiêm ngặt các khám đường nhất là đối với tù trọng phạm v.v...

Cái khám đường hay ngục thất mà ngày nay nhắc đến tên đủ rợn tóc gáy là Khám lớn Sài Gòn, vị trí ở ngay Thư viện Quốc Gia đường Gia Long, mà oái ăm thay, người Pháp lúc đó không gọi là khám lại gọi là "nhà" và đặt tên là "Maison Centrale" để tránh tiếng Prison Centrale, mà chính họ cũng không muốn dùng tiếng prison vì nghe ghê rợn quá; duy dân ta lại quá nhàm và đặt là Khám lớn Sài Gòn, cũng không gọi đó là Đại Ngục thất hay Đại Khám đường chi cho rườm. Năm 1953 tôi có viếng và chụp hình được đầy đủ chi tiết để viết một thiên khảo cứu dày, nhưng hỏi ra tôi đành chịu thua, vì chánh phủ không muốn phanh phui những tài liệu của nhà nước như vậy. Trên từng lầu cao, không nhớ rõ từng thứ mấy, duy nhớ ngó mặc qua sở nhà hình, đường Nguyễn Trung Trực ngày nay, có một phòng lớn xây rất kiên cố, vách dày ba mươi phân Tây (ba lớp gạch thứ 0,20 x 0,10 x 0,05), cửa làm bằng sắt, ống khoá cũng bằng một loại kim khí mà người làm, Ăng-lê và Hoa kỳ, tự hào là giũa không ăn, cưa không đứt, chánh hiệu là ống khoá Yale trứ danh. Phòng nầy dùng để giam cầm những người bị khép án tử hình và ngày như đêm vẫn khoá chân vào cùm sắt (trong Nam còn gọi là còng), và những còng nầy vẫn xỏ vào một gông sắt to bằng bắp tay, một đầu gông thì cháy cứng và một tấm sắt thật dày không rút còng ra được, còn đầu gông bên kia thì có khoét lỗ để đặt một ống khoá Yale thật to. Mỗi lần muốn đưa tù đi hầu toà hay đi một việc cần thiết như hỏi cung, trình biện lý cuộc hay "cho ra chơi", mỗi tuần vài ba mươi phút, thì phải mở khoá rồi rút chân từng người như cá trong xâu gắp, lấy ra, xong rồi khoá chân lại trong cùm. Lâu ngày chân chai đi, chớ lúc đầu lở loét, sanh ghẻ, chảy máu chảy mủ đau đớn lắm. Nội cái cách làm tiền, cai ngục khoá chân tù vào còng rồi, rồi lại nắm chân giựt kéo thử xem có sút tuột ra không, nói đến cũng đủ lạnh mình và tục lệ "khám tối" nầy, là cứ mỗi phiên đúng bốn giờ đồng hồ thì có một "phiên canh", viên cai xếp mở khoá cửa phòng, vô xem xét lại coi cái khoá gông có còn y như cũ chăng, rồi mới trở ra khoá trái cửa sắt lớn và canh tuần bên ngoài cẩn mật, có thể nói là con ruồi cũng không thể bay vô ra thong thả chốn nầy nếu không có phép của viên cai ngục nầy. (Tôi nói cai ngục chớ chưa phải chúa, vì tôi dành chữ "chúa ngục" để gọi tên Agostini là đầu dọc của khám đường, chức gọi directeur de la Mai son Centrale; cũng chưa hẳn chúa ngục là gác-dan xếp, vì Agosiini là chủ, là chúa tất cả và oai hơn nhiều, nhưng nếu dịch "giám đốc khám đường” thì tựa hồ kém mất oai đi). Ấy vậy mà một đêm tối trời, mưa gió lu bù, vào một giờ khuya khoắt, các xếp cai ngục đang ngủ gục. Giữa lúc ấy (độ một hai giờ khuya), anh cai ngục Chà lai Việt tên là Simoni, có phận sự mở khoá phòng tử hình để vào trong xem xét ổ khoá của cái gông lớn. Vừa đúng lúc ấy, các tù bên trong đã núp chờ sẵn, bỗng tạt mạnh vào mắt mũi tên cai, ngục một mủng vừa chứa đầy nước mắm giằm ớt cay mà họ dành dụm từ nhiều ngày để chờ cơ hội nầy. Tên cai ngục bị ớt cay nước mắm mặn làm cho mở mắt không ra, thừa dịp ấy, mấy người tù nầy lấy áo quần làm dây trói tay chân tên cai ngục bỏ nằm đó, lục lưng thộp xâu chìa khoá và ùn ùn mở khoá cửa kéo nhau chạy ra ngoài, rồi cởi hết quần áo đánh làm dây thang, quăng móc được lên vách ngoài và mặc dầu miểng chai, miểng kiếng chơm chởm, nhưng bất kể kiếng cắt chai đâm, họ cũng liều chết leo ra trốn được không hơn mười người, về sau đều bị bắt lại đủ số, vì làm sao thoát được với cách đề phòng hết sức hoàn bị của Pháp, có điện ba dây, có chuông a-lẹt (báo động) và cách trấn binh phòng thủ năm ngăn, bảy nắp từ trong ra ngoài của cái Khám lớn Sài Gòn có tiếng là khó hạ, khó chiếm (imprenable) nầy? Khi bắt tù trốn về, quan chưởng lý ra lịnh điều tra và có mời một viên chuyên môn từ Pháp quốc qua, để nghiên cứu về kỹ thuật tại sao khoá Yale tuy tù không có khí cụ tinh xảo mà vẫn cắt đứt và trốn thoát được như vậy?

Hỏi: Mấy anh lấy gì để cắt gọng ống khoá nầy?
Đáp: Chúng tôi lén giấu miếng xi-măng rồi thừa dịp cai ngục trở ra, thì cắt.
Hỏi: Mấy anh cắt như vậy trong bao lâu thì gọng khoá đứt?
Đáp: Dạ, cắt trong tám giờ đồng hồ thì gọng khoá đứt lìa.
Hỏi: Tôi không tin, vì trong tám giờ có đến hai lần đi rỏn, đi tuần (faire une ronde), mấy anh làm sao để tránh mất cú vọ kinh nghiệm của gác-dan?

Đáp: Dạ thưa, dễ ợt! Gác-dan ra vô mãi hoá quen và khinh thường. Chúng tôi kinh nghiệm nào thua họ và cứ mỗi lần rỏn họ day lưng ra hoặc chúng tôi canh kỹ biết giờ họ sắp vào trong khám, thì trước đó chúng tôi dùng xà-bông dành dụm phát khi tắm khi giặt, lấy đó đắp lên trên chỗ cắt, màu đồng ổ khoá và màu vàng của xà-bông Mạc-xây vẫn tiệp y nhau, dẫu ông Trời hay Bao Công tái thế cũng không dễ gì khám phá.

Thế là cuộc điều tra kết thúc. Muốn cho hắc bạch phân minh, viên điều tra Pháp yêu cầu một ông quán ty đề hình xỏ chân vào cùm và còng lại, khoá lại bằng ổ khoá Yale và dạy ông cắt thử bằng miếng xi măng, quả nhiên tám giờ đồng hồ gọng khoá đứt lìa, tội nhân tử hình phạm tội gì chớ không phạm tội nói dối!

Để tỏ ra mình tài ba xuất chúng, viên điều tra Pháp, cử nhân khoa học kiêm cứ nhân luật, đích thân đến khám xem xét tại chỗ, sau đó gởi lên chưởng lý và thống đốc tờ phúc trình chê đè các viên chức giữ ngục cũ, hoặc vì dốt hoặc thiếu kinh nghiệm, hoặc vì lơ đễnh, đã "dâng cơm cho lục" nhè ổ khoá gông lại đặt trong phòng giam, khiến nên khi đi rỏn, thì người cai ngục vẫn ở trong tay tha giết của những tù nhân bên trong, đều là bọn bất trị hay liều mạng cùi.

Viên điều tra đưa ra sáng kiến mới mẻ trong phúc trình rằng: "Thay vì đặt đầu gông và ổ khoá bên trong, bây giờ tay hãy đục vách tường khoét một lỗ nhỏ cho vừa lọt đầu gông ra ngoài, rồi khoá cái ống khoá Yale bên ngoài vách. Như vậy tù nhân làm sao thò tay ra ngoài mà cắt ổ khoá được? Cố nhiên khi đi tuần, chỉ cần liếc xem ổ khoá còn y nguyên, thì biết tù bên trong vẫn còn đủ số. Trừ ra khi nào muốn giải toả đầu gông hay dẫn tù ra ngoài, khi ấy sẽ mở khoá, thụt đầu gông vào trong và khi ấy viên cai ngục sẽ đem lính gác có đủ súng ống theo vào trong, thì làm sao tù tạt hắt nước mắm và bắt trói được, như vậy phải lưỡng toàn kỳ mỹ chăng?”

Bản phúc trình nầy tôi thấy mới lạ, nên có sao chép định làm tài liệu để viết và thuật lại khi tuổi già, tiếc thay lúc ấy chạy giặc nơi làng Hoà Tú năm 1946, lúc lính Tây bố ráp, tôi bỏ lại trên giường, giữa đêm khuya và có một nhóm người đến hôi của, thấy bó giấy tưởng là giấy bạc, giành nhau, chừng biết đó là giấy vụn bọn người nầy thất vọng bèn đốt làm đèn rọi để soi kiếm đồ khác, nay tôi tiếc quá!

Nay nhắc lại viên đá khoét lỗ của khám lớn Sài Gòn, khiến tôi phải dài dòng thêm nữa. Số là buổi ấy là thời kỳ chiến tranh, bên châu Âu thì Tây đã thua Đức còn chờ ngày "Dứt chến", còn bên Đông Dương thì binh Nhật lan tràn hách dịch, người Pháp làm chuyện vá víu chờ thời cơ, cho nên mặc dù lời đề nghị kia có chỗ tuyệt diệu, nhưng khi đem ra thực hành, trong cơn cấp bách như lửa cháy nầy, khiến nên khi đục vách đem đầu gông ra ngoài, thay vì lựa một viên đá cho vuông vắn, người thợ hồ làm việc tạm bợ lấy có và đã chọn một đầu đá có chạy chỉ bất viền khéo léo, vì chung viên đá cổ nầy có khoét sẵn một lỗ tròn đúng ni tấc cho đầu gông sắt lọt qua; khi đặt vào tường, người thợ hồ sẽ lấy xi măng trám bằng phẳng và bít mất những lằn chỉ viền bên kia đi, thì cục đá cổ sẽ hoàn toàn như mới chỉ còn hai mặt liền trơn với vách.

Làm như vậy viên đá đã làm tròn phận sự và giữ được tù khỏi trốn. Nhưng đối với nhà kháo cổ gàn như tôi, tôi vẫn chưa bằng lòng. Số là khi có lịnh chánh phủ sai phá bỏ Khám lớn Sài Gòn, tôi là người có ý định sẵn cho nên tôi đã xin đem cục đá có khoét lỗ ấy về đặt tại sân giữa của Viện bảo tàng, vì tôi cho rằng đó là một viên đá lịch sử, di tích độc nhất của cái gọi là Khám lớn Sài Gòn. Năm trước đây, nhân một buổi hội hiệp bàn về văn hoá và về thư viện quốc gia, tôi có đề nghị ngay với ông bác sĩ Nguyễn Lưu Viên, kiêm chủ tịch ban Văn hoá thời ấy, rằng nên dựng một cái bia bằng đá, nơi góc đường Gia Long và đường Công Lý, trước mặt tiền Thư viện Quốc Gia, rồi đặt viên đá Khám lớn có khoét lỗ nầy và ghi một đôi hàng chữ cắt nghĩa đó là di tích của một chỗ âm u tù đày "Khám lớn" mà ta đã biến thành một nơi sáng suốt chứa đựng văn hoá văn minh các nước, v.v... Lời đề nghị của tôi được ông N.L. Viên tán thành, và cục đá vẫn còn nằm chờ đợi “có chỗ dùng" nơi Viện bảo tàng; tiếc thay cho đến nay vật đâu nằm đó, cho đến tôi chết ắt không thấy cái bia kia, vì ông Mai Thọ Truyền đặc trách Văn hoá, vốn là đốc phủ sứ, sau làm thanh tra ngạch tài chánh, làm sao nghe một lời đề nghị vô duyên của một thơ ký quèn, bạn cũ mà thi rớt Huyện! Hôm nay tôi viết mấy hàng nầy thì ông đã nằm yên dưới mộ, tôi xin thần minh chứng giám, tôi vẫn giữ tình xưa như cũ, mến phục ông thì có mà không lòng nào kích bác một bạn cũ đồng trường tốt phước hơn tôi.

d) VIỆC GÌ XẢY RA SAU CUỘC TÙ TRỐN Ở KHÁM LỚN NĂM ẤY. ĐÓ LÀ VIỆC XỬ BẮN MƯỜI BA VỊ ANH HÙNG CHỐNG PHÁP.

Sau vụ tù trốn, tờ phúc trình của quan chường lý chạy lên thống đốc có kể vụ mười ba người phạm nhân phạm tội tử hình giam trong khám tối, mặc dầu cửa phòng mở và khoá gông bị phá, mười ba người nầy không vượt ngục. Và tại sao có cơ hội tốt mà không thèm lợi dụng? Ông thống đốc Rivoal, khi đọc tờ phúc trình, không dám tự mình định đoạt và lật đật sai sao chép y nguyên văn và gởi cấp tốc ra Hà Nội đãi lịnh quan toàn quyền. Lúc ấy đường hàng không sử dụng loại máy bay Potez rất chậm chạp, phải hai ngày mới bay từ Sài Gòn ra tới Hà Nội hoặc từ ấy trở về.

Tuy vậy máy bay Potez chỉ dành riêng cho toàn quyền Đờ Ku hoặc cho loại công văn cơ mật và thượng khẩn. Nhưng bộ hành muốn ra ngoài nớ còn có cách khác đi cũng mau lẹ không thua lại có phần vững chắc hơn Potez, đó là xe hoả tốc hành, nhưng xe hoả thì không oai bằng máy bay, dẫu tử mạng cũng cam. Về công văn muốn mau lẹ hơn nữa thì điện tín mật gởi theo mật mã, nhưng đó là chuyện khác. Khi ông Đờ Ku nhận được phúc trình của ông Rivoal, ngài ta khoái quá, nên điện vô cấp tốc, và ra chỉ thị "grâcié", tức "đặc xá phóng thích” mười ba người kia, và cho rằng đó là những người có can đảm phi thường, đáng được hưởng đặc ân đại xá, để mua chuộc lòng người trong buổi bấp bênh có kẻ ngoại bang (Nhựt) dòm ngó và cũng để trấn tĩnh những kẻ có lòng như vậy. (Đó cũng là kế sách thâm sâu của ông Đờ Ku nầy quyết ru ngủ dân trong xứ bằng những phương pháp bơm ngọt và dụ dỗ, cầm bằng dân ta ấu trĩ "nên cho kẹo ngọt hơn là dùng roi sắt để cai trị”).

Nhưng khi nhận được chỉ thị ấy, quan chưởng lý phúc đáp cho thống đốc rằng “chỉ dụ đặc xá ấy vô phương áp dụng” cho mười ba người nầy, lý do vì mỗi người đều mang đến hai án tử hình (duex fuis condamné à mort), nếu tha và ân xá một cái đầu thì còn phải làm cho rụng một cái đầu kia, và con người có một thủ cấp chứ không có đến hai!

Sau đó chưởng lý dạy dẫn dắt những người ấy ra cho ông điều tra vì sao có dịp thuận tiện như vậy mà không tẩu thoát, cao chạy xa bay? Cả thảy đều thản nhiên trả lời cụt ngủn rằng: "Một khi ra làm quốc sự là đã lựa cái chết để đền nợ nước, chạy trốn là phi anh hùng!".

Đã không được ân xá thì phải hành hình. Chiếu y quân luật, họ bị xử bắn. Bây giờ pháp trường thuộc vùng Gò Vấp hay Hóc Môn gì đó, chung qui thuộc tỉnh Gia Định. Lại nữa chuyện xảy ra đã quá lâu, tôi cũng không dám quả quyết xử lần trước sáu người lần sau bảy người, hay là lần trước bảy lần sau sáu, vậy kể như xử bắn mười ba người ấy làm hai tốp. Tốp thứ nhất chịu hành hình xong, ông Dufour, lại cũng ông Dufour, lúc nầy ông đã thôi làm chánh văn phòng nơi dinh Thống đốc Rivoal và về lãnh trong trách làm chủ tỉnh tỉnh Gia Định. Ông nầy vì cuộc xử hắn xảy ra trên địa phận ông cai trị nên ông đứng ra làm thị chứng cuộc hành hình, và trên biên bản nơi phần cước chú, ông ghi một câu vắn tắt: "Ils sont morts courageusement", tôi dịch là "Chúng nó chết một cách can đảm”. Và khi được tờ phúc trình về việc nầy, ngoài Hà Nội quan toàn quyền Đờ Ku gởi vào ông Thống đốc một công văn mật căn dặn nên khiển trách sơ ông chủ tỉnh Dufour và khuyên ông nên chọn danh từ đúng chỗ, không nên đề cao hay tự tuyên dương kẻ thù. Trong công văn cũng nhấn mạnh đó là nể tình ông Dufour là một quan cai trị có công cán nhiều nên không nỡ khiển trách nặng, miễn ông đừng tái phạm.

Quả nhiên, sau khi được chỉ thị, ông Rivoal có điện thoại mời ông Dufour ra dinh, và nên nhớ hai người đồng hàng tham biện hạng nhứt, duy ông Rivoal, tốt phước được làm thống đốc, bề trong hai người rất kính nể nhau, nên ông Rivoal, mời ông Dufour ra hai người nói chuyện qua loa trời mưa trời nắng rồi ông Rivoal đưa công văn của toàn quyền có chữ ký của Đờ Ku cho xem và không nói thêm lời nào. Kế hai người bắt tay thân mật và ông Dufour cáo từ lui về Gia Định.

Xẩn bẩn lại đến vụ hành hình kỳ nhì. Cũng ông Dufour thị sự, và phen này, trên tờ biên bản giống y như kỳ trước, ông ghi vỏn vẹn câu: "Ils sont morts trèm courageusement" (Chúng nó chết một cách rất can đảm!).

Thế là chuyến nầy ông Dufour tự khai pháo, nói cách khác, ông tự châm dầu vào lửa. Decoux không dùng công văn, và sau một thời gian ngắn, đích thân bay vào Nam, đòi ông Dufour vào phủ toàn quyền, "cạo sát nhíp" (theo lời ông Dufour thuật lại với ông Grange là phó văn phòng, bạn thân với nhau từ trước), muốn bị khép vào tội "chống đối” sau khi nghĩ tình đồng nghiệp cũ, cho huyền chức, tức khắc giao việc cho chủ tỉnh khác thay thế, và cho chờ một chuyến tàu trước nhứt, cho về hưu trí non, và phải viết tờ tự thú, để vào hồ sơ.

Với phận sự thâu nhận công văn mật, tôi có đọc tờ tự thú nầy, vắn tắt có mấy câu thật nhã mà cứng cỏi: "Tôi, Dufour, là cựu phi công trận giặc chống Đức, tôi có tứ đẳng bội tinh lãnh tại chiến trận đã từng bị thương tại trận tiền, vốn là một binh sĩ nên ăn ngay nói thật, không có tánh nói vẹo màu mè. Phàm kẻ địch chết dũng cảm thì tôi nói chúng nó chết can đảm; khi chúng hô to “Việt nam muôn năm” trước họng súng, tôi có phận sự phúc trình "Chúng nó chết một cách rất can đảm”. Nếu muốn đúng sự thật, đáng lẽ tôi phải ghi “Các lính sơn đá đều khiếp khi bắn, tức nhát sợ, nhứt là tên đội có lịnh bắn phát chót xá hồn (donner le coup de grâce), tên đội nầy hai lần run như cầy sấy, tôi lấy làm nhục cho quân đội Pháp, nhưng tôi không nói trong lúc phúc trình".

Tờ thú nhận nầy, tôi ghi vào sổ "mật" đánh đấu thứ tự rồi gởi vào trong, trình Thống đốc, nhưng không bao giờ thấy trở ra.

Lúc ông làm chủ tỉnh ở Rạch Giá, ông ra chợ thấy dân nghèo nheo nhóc, trẻ con trần truồng vô y vô khậu, ông chạy xe về dinh ôm tất cả áo quần của con ông đem ra chợ phân phát hết, bất chấp lúc ấy hàng khan, không dễ gì sắm lại. Sau cuộc đảo chánh và khi binh Pháp trở lại Đông Dương, lúc ấy tôi đã về hưu, bỗng tôi thấy dạng ông Dufour đi ngang nhà, số 31-33 đường Hai Bà Trưng, chợ Sốc Trăng. Khi đó tôi biết dư ông làm lớn, thanh tra chánh trị gì gì đó, nhưng tôi khép cửa bước vào trong. Tuy rằng chủ cũ năm xưa, và đây là người hùng, gặp người cũ ắt mừng lắm. Nhưng tôi cam phận gác ngoại vòng thoi, như vậy mà cũng chưa được yên thân. Cái kiếp con bò kéo xe, tôi chưa thoát, và năm 1947 phải ra đầu quân lại nơi Viện bảo tàng, thà ăn lương công nhựt hơn là cầu cạnh ông Dufour, lúc thấy ở Sốc Trăng.

Chưa hết chuyện. Còn lại mười ba cái thây ma, không biết đem về đâu, và chôn dập nơi đâu? Chầu xưa, Sài Gòn có hai đất thánh: đất thánh Tây là nghĩa địa đô thành như ngày nay, mặt tiền ở đường Phan Thanh Giản, cửa trổ ngay đường Mạc Đĩnh Chi, và một nghĩa địa thứ nhì, nay đã san bình địa cất nhà lên trên cho công chức nhỏ của đô thành ở, xưa có tên là đất thánh Chà và đó là nơi chôn vùi dân bản xứ và tội phân tử hình như đám phá Khám Lớn đời Phan Xích Long và Tư Mắt v.v... đất Thánh Chà ở phía sau nghĩa địa đô thành và day mặt tiền vào đường Hiền Vương, trổ cửa xéo xéo đường Phan Liêm.

Còn một thây ma nữa và là thây ma một người đàn bà, không tên không tuổi, và khi đem ra hành hình chỉ mang tên kín là "agent X" (mỗ viên). Nghe nói bà là người có học thức, đậu bằng brevet élémentaire hay brevet supérieur (văn bằng tiểu học hay cao tiểu) nhưng bỏ tất cả ra làm quốc sự, đã mấy lần bị bắt, sau rốt bị kêu án tử hình. Trước khi hành hình, người cha là một ông quan ở Huế, nghe nói chức to lắm, vào Sài Gòn nhờ luật sư xin được thấy mặt con. Luật sư Pháp làm đơn xin đến toàn quyền nhưng ông Đờ Ku bác đơn không cho cha thấy mặt con, mặc dầu chưởng lý gởi suông bức đơn của luật sư không chống cũng không chấp thuận. Sau khi thọ hình, người cha đau đớn nhờ luật sư thảo một bức đơn thứ nhì thống thiết xin lãnh xác con về chôn. Toàn quyền Đờ Ku lại bác nữa. Trong đám công văn mật, tôi ghi vào sổ một bức thơ của ông luật sư gởi ông toàn quyền xuyên qua thống đốc Nam Kỳ, đại khái tôi nhớ và thuật lại như sau:

"Thưa quan toàn quyền, tôi ký lên dưới đây, xin trả lại ông:

1) Một mề đai điều tứ đẳng bội tinh lãnh tại trận tiền do chiến công mà có;

2) Tôi trả luôn quốc tịch Pháp và bằng cựu thương binh trận giặc 1914-1918.

Tôi là con một nhà cách mạng. Ông cha tôi đã từng làm cách mạng năm 1789 để lật đổ một chế độ lỗi thời và chống lại những, bất công của xã hội.

Vừa rồi tôi thay mặt cho thân chủ tôi là một người Việt Nam, cựu quan lại triều đình Huế. Ông không thể nói vì lão quan nầy thiếu sự hy sinh cho Đế quốc Pháp của chúng ta. Thế mà ông khước đơn tôi ký xin cho người cha nầy được thấy mặt con là "mỗ viên" một lần chết, trước khi con bị hành hình, vì tội làm quốc sự chống Pháp. Trong việc nầy, tôi cam cúi đầu trước lịnh của ông, vì ông là người điều khiển xứ nầy, có một chánh sách của ông riêng mà tôi không hoàn toàn đồng ý. Và có lẽ ông nhìn nhận chống Pháp là quyền riêng của người kia, không chắc đó là tội, và trước tiên luật pháp dạy phải tôn trọng tư tưởng riêng của một cá nhân.

Nay mới đây ông lại từ khước cho thân chủ tôi lãnh về một cái thây ma sình thúi để chôn một mộ riêng, vì tình cha thương con.

Tôi hiểu: chống lại cảnh tương ngộ cuối cùng của một cha già và một nữ nhi sấp chết, đó là một sự bất nhân tàn nhẫn, vô lương tâm, một đấng quân tử không khi nào dùng đến phương sách hèn hạ ấy, nhưng có chỗ dung thứ nếu hiểu làm chánh trị, cai trị một thuộc địa, phải như vậy, tức không có cảm tình.

Đến như nay ông từ chối không cho lãnh một cái thây ma "vô dụng" để đem về chôn phần mộ riêng là một cách an ủi lòng già, ông ở xứ Á Đông nầy lâu ắt biết dư, như vậy văn minh chỗ nào, và văn minh của ông như vậy đó có chỗ gì hay hòng truyền bá nơi đây?

Tôi cho rằng việc ấy bất xứng với tư cách một con cháu của các nhà đã làm cách mạng năm 1789.

Bởi các lẽ trên, tôi trả lại ông những gì đã nói nơi trên v.v... và v.v...

Ông luật sư nầy là trạng sư Motais de Narbonne, tôi không nhớ sau đó có bị hành tội gì không duy nhớ về sau thấy tên ông trên báo Pháp và tên tuổi ông lẫy lừng.

Tôi không có ý đề cao ai, nhưng ông Dufour và ông Motais de Narbonne nên liệt vào hàng Tây tốt.

Về điển tại sao gọi hải đảo Trường Sa là Iles Itu Aba

Còn một giai thoại khác xin nói cho luôn cuộc kẻo quên, và để nhớ buổi nhàn hạ thời còn làm trên dinh Thống đốc hay Phó soái ở Sài Gòn: việc nầy có liên quan đến hải đảo Trường Sa. Đảo nầy tên riêng gọi là Itu Aba, và khi đánh điện tín mật mã từ Nam (Sài Gòn) ra đó thì đề trên dây thép: "Phước à Itu", tức khắc sở điện tín gởi ngay ra đó vì tên "Phước" là dấu hiệu riêng để gọi Thống đốc Nam Kỳ, cũng như khi có điện tín nhận được “Itu à Phước" thì nhà dây thép chánh biết ngay mà đem lại dâng cho dinh để dịch lại tiếng thông thường trình lên thượng cấp. Một hôm đến phiên tôi gác, gần Tết, lối hai mươi lăm hai mươi sáu tháng chạp ta, lon-ton đưa vô tôi một điện tín vàng mật mã, dịch ra thì hiểu các ông lính mã-tà ngoài ấy, vì bắt vít lấy trứng luộc ăn mãi ngán quá nuốt không vô, nên thừa dịp cận tết, gởi điện tín mật xin gởi ra cho họ: năm ba bộ bài tứ sắc để giải buồn, ít kí-lô lạp xường và ít kí-lô hạt dưa đỏ để cắn chơi, nhai chơi thì cũng hiểu được, duy sau rốt có mấy số dịch hoài mà vẫn vô nghĩa. Tôi đánh dây thép xin gởi cho số khác, vì e sở điện tín ghi lộn, nhưng trở đi trở lại cũng mấy số vô nghĩa cái gì mà: H comme Henri, Acomme Albert, M comme Maurice. Nên nhớ lúc ấy dùng toàn Pháp văn, nên ba số nầy dịch là H.A.M, tạm hiểu như vậy. Đến đoạn sau, cái gì mà: D comme Denis, Z comme Ulysse, ráp lại là Dzu.

Tôi bứt đầu bứt óc kêu trời, may sao ông đốc phủ Bá là xếp của tôi, ông thấy tôi sa lầy, lại tiếp và sau rốt cả hai mới hiểu họ thèm cá mặn phơi khô của tiệm chạp phô các chú bán: mà thay vì "cá mặn" họ viết "hàm dzu" - (đọc là hàm dũ theo trong Nam, tức hàm ngư là cá mặn rõ ràng. Rõ tôi bị tổ trác!)
Một chuyện chót. Lúc tôi lên làm tiếp trên dinh Toàn quyền hai tuần lễ ở Đà Lạt với ông Decoux tôi có hỏi một chuyên gia Pháp về mật mã vì sao đặt tên hải đảo Trường Sa là cù lao Itu Aba, ông nầy cười và nói bằng tiếng Việt. Khi trước lựa tên đặt theo mật hiệu, có một thằng Tây nhè lựa danh từ trớ trêu "Chị Tư Chị Ba" là tên của hai người bồi của nó vì nó đọc giọng Pháp Itu Aba mà thành danh luôn từ thuở". (Tài liệu nầy tôi không đảm bảo rằng đúng nhưng cũng phải chép ra đây để người thức giả nghiệm lại).

 

 


19


Việc Gì Xảy Ra Tại Tỉnh Sốc Trăng Trong Năm 1945


Dẫn - Trong chương hồi ký nầy, tôi cố viết, theo tôi hiểu, về những việc xảy ra nơi tỉnh nhỏ quê hương yêu quí của tôi, tỉnh Sốc Trăng, sau khi Nhựt lật đổ chánh quyền Pháp tại khắp Đông Dương, bắt toàn quyền Decoux, và ra lịnh cho quân Nhựt tước đoạt quyền hành từng địa phương trong Nam Kỳ của chánh phủ đô hộ Pháp, cáo chung từ ngày 9-3-1945 và lọt về tay Nhựt dưới danh từ giải phóng cho người Việt cũng như bao nhiêu người Lào - Miên - Xiêm - Miến Điện với cái mộng bánh vẽ “Đại Đông Á”.

Tôi khuyên độc giả nên tìm đọc quyển “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của ký giả lão thành Nam Đình (Nguyễn Kỳ Nam), không bán, và dành riêng, do nhựt báo “Dân Chủ Mới” xuất bản năm Giáp Thìn (1964). Tôi nhìn nhận quyển Hồi ký ông Nguyễn Kỳ Nam nầy mới thật là tập sử liệu quí giá viết đúng phương pháp hồi ký vô tư và khách quan. Trái lại tập nhỏ hồi ký của tôi viết về Sốc Trăng, chẳng qua là những gì nghe thấy nông cạn của một đứa con sanh đẻ tại tỉnh nhỏ nầy và đã từng sống hơn mấy tháng làm nhân chứng bất đắc dĩ tại toà bố vì bị ép buộc hơn là tình nguyện. Nếu đôi khi tôi có nói nhiều về “thằng tôi” thì đó là vạn bất đắc dĩ, tình thật tôi không có ý đề cao cho tôi. Nếu vô tình tôi tự đề cao cá nhân, tôi dư biết chỉ làm cho chúng ghét, và cũng không ích gì trong tuổi gần đất xa trời nầy. Duy tôi thấy tình người thường ham đeo theo danh lợi và tình người thường quên rằng danh lợi tự dâng đến mình mới quí chớ thứ “hoạ phù thân đái”, trước sau gì cũng bị lộ tẩy và tự mình bị đào thải hay bêu xấu, lại càng thêm xấu. Khi viết tôi không cố ý, nhưng vì muốn giữ đúng sự thật, tôi vẫn kể tên lại, nếu không đúng sự thật, các nhân vật nầy có quyền cải chính.

Cho đến nay, tôi vẫn còn ngờ vực và không dám quả quyết cái mộng xây dựng “Đại Đông Á” của mấy ông Nhựt là thực hay giả? Một điều nên nhận là khi lật đổ chánh quyền Pháp từ Sài Gòn, Hà Nội đến các tỉnh trong xứ, mặc dầu lúc ấy binh Nhựt đã nếm mùi thất bại nơi nhiều chiến trận hải ngoại, nhưng trên cõi Đông Dương bắt đầu từ ngày 9-3-1945, Nhựt làm như toàn thắng và thật sự ra mặt thay thế mấy ông Tây và cai trị bằng các quan lại Việt Nam ở đâu ngồi đó, chớ tỉnh Sốc Trăng lúc ấy không có tin tức từ Sài Gòn đưa xuống, vẫn lùng tung lúng túng như người ở trong mùng giữa một đêm khuya đèn đuốc tắt từ lâu và chưa mồi lửa kịp. Xe thơ con đường liên tỉnh Cà Mau - Sài Gòn xuyên qua Sốc Trăng, Cần Thơ đã nghỉ chạy. Chánh phủ trung ương đã đổ, từ chín giờ đêm 9-3-1945. Một tài liệu đích xác tôi còn giữ được là bức điện tín mật mã dịch như sau:

“Pour Ke-An de Soctrang N.742 most 33 dépôt le 12-3-1945 à 18h15m Administrateur à délégués administratifs Kean-Longphu-Thanhtri. Au cas où circonstances (pluriel) m obligent (présent) (pluriel) quitter direction province, vous laisse (présent) libre agir selon votre consience”.
Dịch: “Gởi cho Kế-an, từ Sốc Trăng, Số hiệu 742; 33 tiếng, gởi 12-3-1945; 18h15. Tham biện chủ tỉnh gởi các chủ quận Kế an, Long Phú, Thạnh Trị. Nếu tình hình bắt buộc tôi rời chức vị cai trị tỉnh, tôi phó thác quí vị trọn quyền hành động theo như lương tâm”.
(Nên nhớ Sốc Trăng lúc ấy chia ra làm bốn quận, và riêng quận Châu Thành khỏi gọi điện tín mật mã, vì tham biện ra khẩu lịnh vừa gọn và rành rọt hơn).


Lúc nầy quyền hành chánh trong tỉnh như rắn mất đầu, nói cách khác, đã bỏ trống. Chủ tỉnh là ông Barthel, phó là Mahé, cò là Tolosano, đều kéo theo lính mã-tà, chạy về hướng Cà Mau. Barthel nghe đâu dắt một thơ ký độc thân chạy theo, và xui xẻo xách lầm va-li của bà, toàn y phục đầm. Anh thơ ký nầy sau thưởng công được thăng ngạch cò-mi, sau cải bổ làm đốc sự, khỏi thi.
Anh tên H.V.T. Bà Barthel chạy vô ẩn trong nhà trắng với các bà sơ, lấy lộn va-li chồng, toàn y phục đàn ông, nhưng miễn cưỡng dùng được, và lúc ấy vì nạn khan vải, dẫu chức tham biện cũng mặc quần sọt và áo sơ-mi tay ngắn.
Đến nay tôi cũng chưa rõ vì duyên cớ nào (hay vì sợ trách nhiệm?) lúc đó ông chủ quận Châu Thành, có quyền ưu tiên, lại không nhận lên cầm quyền thay thế chủ tỉnh Pháp, và nhượng cho quận Kế An lên ngồi làm tỉnh trưởng tạm thời.
Một tờ bố cáo được dán khắp châu thành, tôi gỡ cất, nguyên văn như sau:
BỐ CÁO
Cùng nhân dân tỉnh Sốc Trăng đặng rõ.
Hiện nay, chánh phủ Đại Nhựt Bổn đã giao cho các quan chức và thân hào An nam tổ chức việc cai trị trong tính Sốc Trăng.
Vì nòi giống, chủng tộc, vì muốn cho dân chúng được làm ăn yên ổn, cho nên chúng tôi chẳng nể tài sơ trí siển, gánh lấy sự cai trị trong tỉnh và do hội công đồng, ngày 14 tháng 3 năm 1945 (Tây lịch) nhằm mồng một tháng hai năm Ất Dậu, cử Uỷ ban ban cai trị sau đây.
Chánh hội trưởng: Võ Văn Đảnh, đốc phủ sứ
Phó hội trưởng: Đào Văn Hội, tri phủ
Quan chủ quận Châu Thành kiêm chánh sở cảnh sát: Ngô Văn Nghị, đốc phủ sứ
- Quan chánh toà  Trần Văn Tân
- Lục sự  Đoàn Bá Lộc
- Thanh tra các trường sơ đẳng  Nguyễn Văn Nghĩa
- Kho bạc  Huỳnh Văn Đạo
- Phó kho bạc  Lâm Văn Xử
- Hoạ đồ  Bùi Đình Quế
- Chủ sự Bưu điện  Huỳnh Văn Quế
- Kỹ sư dẫn thuỷ nhập điền  Nguyễn Ngọc Bích
- Trưởng tiền cầu cống  Đỗ Văn Trà
- Chánh sở Y tế  Nguyễn Văn Sang
- Chủ sự Thú y  Đỗ Hữu Khoán
- Chủ sự Mễ Cốc  Nguyễn Thành Hộ
- Kiểm soát tài chánh Trần Văn Trọng
- Hội trưởng hội sản xuất lúa gạo Ngô Thiên Xên
- Chủ sự Bách phần  Lưu Tấn Đạt
- Chủ sự Thương chánh  Cao Văn Thành
- Chủ quận Long Phú  Hồ Văn Xuân
- Chủ quận Thạnh Trị  Hồ Văn Sĩ
- Chủ quận Kế Sách  Huỳnh Vạng Thân
Chúng tôi xin nhân dân các sắc cứ vững lòng làn ăn như thường, đừng nao núng chi cả, thuế vụ phải đóng đủ, hãy tin cậy lấy Uỷ ban cai trị của chúng tôi, còn kẻ nào bất tuân luật pháp, ăn trộm, ăn cướp làm chợ đen mà bóc lột dân lương thiện vân vân thì sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.
Sốc Trăng, ngày 15 tháng 3 năm 1945
Mồng hai tháng hai năm Ất Dậu
Hội trưởng Uỷ ban cai trị
Ký tên VÕ VĂN ĐẢNH
Những hàng gạch đậm là y nguyên văn. Tôi cũng cất giấu được bố cáo nầy nữa.
BỐ CÁO
Khẩn cấp cho các sắc dân rõ.
“Phàm dân trong toàn tỉnh ai phạm mấy điều kể sau đây sẽ bị nghiêm trị.
CHÁNH PHỦ NHẤT ĐỊNH CẤM:
1. Cờ bạc (lớn nhỏ cũng vậy)
2. Oa trữ hàng hoá, bất kể là loại nào. Phải khai liền với nhà cầm quyền.
3. Bán chợ đen và tăng giá những nhu cầu không có phép của Chánh phủ.
4. Phá rối việc trị an bằng cách: mưu loạn, phao truyền tin nghịch Chánh phủ Việt nam hay là nhà binh Nhựt. Không hợp tác với nhà cầm quyền, phá đường giao thông.
5. Trộm cướp, và lợi dụng quyền hành.
6. Giữ súng trái phép. Lính kín, lính mã tà và lính tập của Pháp đã trốn, phải về nạp súng cho Chánh phủ, súng và đạn lượm được phải giao ngay cho quan quận sở tại.
7. Các đồ đạc và tiền bạc của người Pháp để lại. Ai có giũ đồ hoặc tiền bạc của người Pháp gởi phải khai với nhà cầm quyền và nộp tại Toà bô. Đồ của người Pháp cho và đồ của họ bán mà không có biên toa cũng phải nạp: ví như đồ ăn cắp hay là mua của kẻ cắp. Ai mua có giấy tờ thì phải trình toà và chỉ rõ món đồ mua cho nhà cầm quyền xét đoán, có thể mới được làm chủ đồ ấy.
Hương quản mỗi làng phải truyền rao cho dân làng mình rõ và hành sự ngay trong năm ngày sau khi dán bố cáo nầy tại các nhà việc, chợ và quận trong tỉnh.
VIỆT NAM VẠN TUẾ
Sốc Trăng ngày 26 tháng 3 năm 1945
Quan chánh chủ tỉnh,
VÕ VĂN ĐẢNH

                                           ***
Và sau đây là bản dịch tờ phúc trình của Tỉnh trưởng tạm thời tỉnh Sốc Trăng số 4 đề ngày 8-4- 1945 gởi lên Thống đốc Nam Kỳ (văn phòng) dịch y nguyên văn (có in tiếp sau bản dịch), tả rõ tình hình chánh trị, kinh tế và tài chánh trong khoảng thời gian xảy ra trong tỉnh từ ngày 10-3 đến 8-4 năm 1945:
Bản dịch.
Sốc Trăng ngày 8 tháng tư dương lịch 1945
Chủ tỉnh lâm thời hạt Sốc Trăng
Kính gởi quan Thống đốc Nam Kỳ (văn phòng)
SAIGON

Trích yếu: Về tình hình chánh trị, kinh tế và tài chánh của bổn hạt Sốc Trăng từ khoảng ngày 10 tháng ba đến ngày 8 tháng tư dương lịch năm 1945.
Tham chiếu: Tiếp theo điện tín công số 45 ngày 4-4-1945 của Tỉnh trưởng Cần Thơ chuyển giao bức điện tín công số 285 ngà 3-4-1945 của Thống đốc Nam Kỳ.
Tôi xin kính trình tường tận tình hình địa hạt Sốc Trăng trong khoảng thời gian từ ngày 10 tháng ba đến ngày 8 tháng tư đã qua. Về mặt chính trị ị, kinh tế cũng như về tài chính.
1) VỀ TÌNH HÌNH CHÁNH TRỊ: Những việc quan trọng xảy ra trong đêm 9 qua 10 tháng ba dương lịch dân chúng bổn hạt biết được nhờ nghe tin đài phát thanh.
Trong ngày 13 tháng 3, trừ những công chức quan lại Pháp và gia quyến họ, thì những nhân vật công chức này đã rời nhiệm sở chạy về hướng Bạc Liêu-Cà Mau.
Thầy biện Barthel, chánh tỉnh trưởng,
- Tham biện Mahé, phó tỉnh trưởng
- Thiếu uý Rabany, trong trại chỉ huy trại lính tập địa hạt.
- Hiến binh (sen đầm) Champion và Tolosano,
- Thanh tra mật thám Canalngio, kiêl nhiệm ban hành cảnh lưu động địa hạt
- Siccé, viên coi về lò nấu rượu Bãi Xàu.
Ngoài ra, những lính đầu tiên của đạo binh Nhật xuất hiện hiện tại Sốc Trăng vào sáng bẩng tưng ngày 14 tháng ba dương lịch. Trong này 14 ấy tuân lịnh vị tướng lãnh điều khiển đạo binh Nhựt đóng tại Sốc Trăng, một nhóm nhân hào nhân sĩ hiện diện tại Châu Thành, tề tựu ban đầu dưới quyền chủ toạ của viên tướng lãnh nầy tại dinh toà bố sở tại, sau di về trụ sở Câu lạc bộ Pháp Việt do ông Ngô Văn Nghị, đốc phủ sứ, chủ quận Châu Thành làm hội trưởng, chủ toạ.
Sau buổi hội hiệp nầy, một uỷ ban được đề cứ với tánh cách lâm thời, hầu tiếp tục việc điều khiển cai trị trong bổn hạt, trong khi chờ đợi chánh quyền trung ương chỉ định viên chủ tỉnh thiệt họ cũng như sẽ chỉ định các viên chức đầu sở khác trong tỉnh.
Ngày 17 tháng ba, có một người lang-sa tên là Fauvel, đến tạm trú tại lữ quán địa hạt, đã bị đạo binh Nhựt bắt vì tội xé rách một báo cáo Việt ngữ tuyên bố Việt Nam được độc lập.

 

 

 


20


Ngày 19 Tháng Ba, Cả Đoàn Người Tây ở Sốc Trăng,

Bị Dẫn Giải Về Cần Thơ


Sau cuộc di tống nầy, một cuộc biểu tình bỗng xảy ra, thành phần gồm đông đủ sắc người, đa số là thanh niên Việt và rất đông nam phụ lão ấu từ châu thành đến vùng phụ cận hoặc từ những làng mạc xa xôi ở ngoại châu thành đồng kéo tớỉ tụ tập làm biểu tình. Nhơn cuộc đó, dân chúng bày tỏ ước vọng mong thấy Uỷ ban hành chánh loại khỏi thành phần ba uỷ viên kể ra sau: quí ông Ngô Văn Nghị, đốc phủ sứ, chủ quận kiêm cảnh sát trưởng châu thành. (Chức viên nầy bị dân chúng trách vì có thái độ lưng chừng khả nghi trong các biến cố vừa rồi). Đào Văn Hội, tri phủ, phó chủ tịch Uỷ ban hành chánh lâm thời. (Vị nầy bị dân chúng trách vì có cử chỉ thiếu minh bạch và vì tánh do dự trong các biến cố đã qua). Trần Văn Trọng thông phán ngạch chánh phủ, đã được Uỷ ban phó thác quyền kiểm soát các cơ quan tài chánh trong tỉnh. (Vị nầy nguyên là tri phủ nhưng đã bị giáng chức hồi trào Pétain, cải bổ qua ngạch thơ ký vì hồ sơ cá nhân tệ xấu. Phần đông dân chúng trách ông có hành vi bất ứng).

Cũng trong buổi biểu tình, những người tham dự có yêu cầu mong mỏi Uỷ ban mời một công chức đã về hưu tham gia, là ông Vương Hồng Sển, ngạch thông phán chánh phủ. Bởi thế, cùng một ngày, ông nầy được chúng tôi mời gia nhập Uỷ ban, hầu chia sớt trọng trách làm cho trôi chảy công việc trong tỉnh cùng các cơ quan sở tại, trong khi chờ đợi sự bổ nhiệm các trưởng ty thực thụ. Nhơn dịp nầy Uỷ ban đều đồng ý rằng một viên chức lão luyện, đã từng đảm đang nhiều cơ quan trọng yếu, vả lại còn trẻ trung, thêm ai ai cũng công nhận tánh liêm cần mẫn cán, biết xử sự hợp lẽ phải như ông ấy, thiết nghĩ lúc nầy không được dưỡng nhàn nữa và phải có bổn phận thi thố khả năng giúp ích trong tỉnh.

Như vậy, kể từ ngày 19-3 Uỷ ban hành chánh lâm thời bổn hạt đã sửa đổi như sau:
- Không còn trong Uỷ ban, quí ông:... đốc phủ sứ;... tri phủ;... thông phán: (Uỷ ban đã cấp cho mỗi vị nầy vì tình hình hiện tại: và do đơn họ yêu cầu, mỗi người một giấy phép được nghỉ việc ba tháng có thể được sung công trở lại nếu có chỉ thị của Chánh phủ đương quyền. Và chúng tôi xin đãi lịnh trên về các đương sự).
- Uỷ viên mời dự tuyển nhập có quí ông:
- Hồ Văn Xuân, tri phủ, chủ quận ở Long Phú. Cử kiêm nhiệm chức cảnh sát trưởng Châu Thành, quản đốc khám đường, luôn chủ quận Long Phú.
- Vương Hồng Sển, công chức về hưu - Cử làm phó Uỷ ban hành chánh lâm thời trong tỉnh, do ước vọng công chúng thêm do sự tán đồng của toàn thể Uỷ ban, cho rằng xứng đáng với trách nhiệm giao phó
Ngày 24-3, có cứ hành lễ truy điệu chí sĩ Phan Châu Trinh. Có hương án bày nơi công trường trong tỉnh, trên mấy trăm người tham dự. Có diễn văn nhắc lại sự tích nhà ái quốc nầy, và không có việc gì xảy ra trong buổi hành lễ.
Ngày 28-3, ông Satoh, phó thống đốc Thương chánh, có đến thanh tra sở thương chánh địa hạt. Ông nầy ra lịnh trả về ty bưu điện ông Cao Văn Thành trước đó được Uỷ ban hành chánh cử làm trưởng ty, và ông Odaka đã bổ nhiệm ông Nguyễn Đăng Định thay thế ông Thành, vào chức quyền trưởng ty thương chánh địa hạt.

                                        * * *

Ngày 30-3, mặc dầu không có lịnh nào, nhiều tín đồ Cao Đài đã ngang nhiên chiếm cứ trụ sở ty Thương chánh ở Đại Ngãi và chiếm lữ quán băng-ga-lô Sốc Trăng. Nhưng qua ngày 4-4, những người nầy rút lui trả hai nơi nầy do ông Satoh phó thống đốc ra lệnh và có nhờ hiến binh Nhựt ở Cần Thơ can thiệp.

Cũng trong đêm 30-3, ngày tín đồ Cao Đài chiếm cứ băng-ga-lô vào lối 22 giờ. Không rõ vì sự thông đồng với người ngoài hay chỉ là sự lơ đễnh của gác-dan, có 83 tù nhân đánh cắp xâu chìa khoá của giám ngục và đã tẩu thoát khỏi khám đường địa hạt. Chúng tôi đang mở cuộc điều tra về những người có trách nhiệm về vụ tù nầy.
Tôi không có tự đề cao khi nhắc lại đoạn sử nhỏ của tỉnh Sốc Trăng, nơi chôn nhau cắt rún của tôi. Không bao lâu nữa tôi củng trở về với cát bụi, đề cao cho mình làm gì. Nửa đời lăn lóc, cố vật lộn mà mãi vẫn bị đè xuống dưới, tôi chịu thua, đã xin và đã được về hưu trí từ lâu. Vì một chút háo thắng, muốn thấy tận mắt tận mày buổi các quan thầy cũ, bị Nhựt lùa lên ca-mi-ông như cá mòi trong hộp thiếc, cái tội tôi quá tiểu nhân thiếu khoan hồng, đã làm tôi bị kẹt nặng. Tôi đang đứng nhìn xem mãn nhãn cảnh mấy ông Tây và mấy bà đầm rất quen, nay mặt mày méo xẹo đang gượng gạo leo lên xe ca-mi-ông một cách nặng nề, “một bước hoá mười lui”, vì đã trở nên tù bỉnh của quân đội Nhựt. Mới ngày nào, nhứt hô bá ứng, lên xe xuống ngựa, nay bị áp giải nghe nói về Cần Thơ để rồi trực chỉ lên Sài Gòn, tánh mạng như treo sợi chỉ mành, thiệt là “vinh hà nhục hà” trong nháy mắt! Còn gì hách xì xằng với anh thơ ký, nạt nộ chị bồi con bếp? Mụ Tây đoan và mụ vợ sen đầm, vốn là người quê mùa rẫy bái, nay tay dắt con thơ, vừa mếu vừa lau nước mắt không che giấu được nỗi buồn.

Duy mấy quan lang-sa, mới hôm qua hôm kia còn là chủ tỉnh quan toà, bây giờ nét ủ mày châu, sậm mặt như gà lôi sắp đem ra cắt tiết. Trong thâm tâm, tôi còn chút máu quân tử Tàu, tôi quên hết những việc cu họ đã làm, và đứng đây, tôi thấy xúc động và tội nghiệp giùm thân thế họ. Bỗng tôi nghe tiếng vang dội thanh niên kêu réo tên tôi, kẻ gọi “anh Hai” là gọi theo thứ tự của tôi, kẻ khác kêu “anh Tư” là gọi theo thứ tự bên vợ trước, tôi nghe những gì hoan hô rồi những gì là “cho vào uỷ ban cai trị” thét lỗ tai tôi nghe ù ù rồi không nghe chi nữa cả.
Tôi chưa vội nói ra đây cái vinh và cái nhục của sự được thanh niên hoan nghinh nầy. Cho hay muốn làm quan thì phải học cho giỏi và thi đậu cho cao, và cứ đường ngay nẻo thẳng mà đi, thì mới gọi là tốt phúc. Xin chớ mượn hơi cáo đội lốt hùm, làm quan theo buổi loạn ly, tự mình vẽ bùa mình đeo (hoạ phù thân đái), nó vô đoan (vô duyên) và xấu phúc làm sao? Tôi sẽ chừa vấn đề nầy lại đoạn sau sẽ dẫn giải. Nhưng sự việc xảy ra trong khoảng thời gian đầu tháng ba dương lịch 1945 không dễ dàng mà cũng không khô khan như dã tả trên đây. Sự thật các việc ấy oái ăm thúc giục và dồn dập đưa tới một cách gần như bất ngờ mà tuần tự ngoài xa sự dự định trước của những người đương cuộc và những người góp mặt. Lúc đó tôi có ghi chép vào nhựt ký, nay xin sao lục lại đây làm thiên ký sự nầy, hầu cô bác tỉnh Sốc Trăng có một tài liệu chắc chấn về những biến thiên buổi hỗn loạn tại tỉnh nhà trong năm 1945 ấy. Sau đó tôi sẽ lần lượt rút tỉa và đối chiếu so sánh với các tài liệu hoặc công văn chánh thức tôi còn giữ, hoạ may soi sáng được phần nào buổi đen tối Mars 1945 ở Sốc Trăng vậy.
NHỰT KÝ NĂM 1945 - ÂM LỊCH, NĂM ẤT DẬU
1) Tháng giêng dương lịch có xảy ra một việc cho rằng lạ: nhơn xuống trại ruộng (đường mé sông đi Bãi Xàu) xem dỡ nóc lá cũ thay lại mới, có một con rít to bằng ngón chân cái, dài hơn một gang tay từ nóc rớt xuống, chun tót vào quần lúc nào không hay, không cắn mà cũng không động đậy. Mãi hơn hai giờ sau, tôi đạp xe trở về nhà ở đường Đại Ngãi, mở cửa vô ngồi nơi ghế xa-lông, tôi đang quạt xạch xạch, bỗng thấy đầu con rít to bằng ngón cái có hai càng to đỏ lòm to bằng đầu mút đũa ngo ngoe bò từ trong quần cụt bò ra. Tôi tá hoả tam tinh, đứng phắt dậy và tuột cái quần cụt ra, bất chấp đang đứng ở xa-lông, ngoài kia là đường cái tức giữa thập mục sở thị. Nhưng con rít to tướng kia đã vụt biến mất, tôi nhắm mắt lại để định thần, và cũng không dám tìm hiểu rít đã rớt tự nhiên hay đã chạy trốn kẹt xó nào mất dạng. Trong mắt tôi vẫn còn hình bóng nó, mình đỏ au, đầu vàng khè và cặp càng to hằng đầu mút đũa.! Nếu bấy lâu tôi tính ác, thì dễ gì nuôi con rít độc trong quần suốt mấy giờ đồng hồ mà nó không cắn không kịp. Thật là khó hiểu và cho đến bây giờ tôi cũng chưa giải nghĩa cho xuôi việc lạ lùng nầy. Xin đừng vội nói con rít nầy tu!
2) Ngày 16 tháng chạp Giáp thân (29-1-1945), tôi đang ở nhà sau căn 31 đường Đại Ngãi, lui cui cắm cúi rửa kiếng để lát nữa thợ gắn vào cửa tủ sách, bỗng đứa ở bên căn 33 bưng qua một cái lư hương không (tro và nhang trút sạch) rằng chú Tư (em một cha khác mẹ) “đã đổ bỏ và không cho thờ nữa” nay trả lại tôi lư hương không nầy. Thiệt là một tin sét đánh, nghe rồi nước mắt tự nhiên tuôn trào, lòng dường dao cắt, tôi cầm cái lư hương hai tay run rẩy, xin con ở giùm qua hốt lại một mớ nhang tàn, đem về bên ni đốt ba cây nến lâm râm khấn vái hồn mẹ vợ, đứa em đã nghịch ngợm, giận vợ chồng tôi mà đành làm một tội bất kính lớn đối với người quá vãng, thôi thì xin dung thứ bao nhiêu tội tôi xin gánh chịu. Thà rằng chín giận mười hờn, em C. cầm lư hương qua trả cũng đủ, lựa chi có cử chỉ ấy, làm xúc phạm đến hương hồn một người đã theo đạo Thiên chúa nhưng tôi vẫn thờ theo đạo Khổng, để tưởng niệm ân thâm gả con cho tôi. Quả thật tôi là một thằng hư, đến lư hương thờ cúng mẹ vợ mà không đủ tài giữ gìn cho khỏi chuyện xúc phạm nầy. Xin mẹ nhơn từ tha thứ cho em C. và bao nhiêu tội con xin gánh chịu. Ngày nay nhớ lại, sau đó vợ chồng tôi hồ tan keo rã, một phần lớn cũng vì sự em chồng trút lư hương thờ mẹ vợ, và không trách, khi hết thương, nàng sẽ mượn cớ bước sang thuyền khác dễ dàng. Mấy hàng lẩn thẩn nầy ghi chép giữa lúc bom Mỹ mỗi đêm, năm 1945, bay qua trút trên đầu đạo binh Nhựt trú đóng ở Sốc Trăng, hoạ lây cho dân Việt vô cô, không gây chiến mà vẫn gánh chịu nạn chung. Những tin tức nầy đối với tai hoạ treo trên đầu dân Sài Gòn và phụ cận là Gia Định vào nửa tháng tư năm 1975, thì là mười phần không có một. Nay ngồi đánh máy chép lại ký ức cũ mà lòng ngao ngán viết bất thành văn.

Bắt đầu tháng ba dương lịch năm Ất Mão 1945 nầy, tin tức ngoài chiến trận hoàn toàn xấu tệ: mất Ban mê thuộc, Plei-ku, Kon-tum, là “phối kiểm vị trí”; mất Quảng Trị, Huế, cũng lại vì phối kiểm nữa, kế đến mất Đà Nẵng, rồi Đà Lạt, rồi Nha Trang, rồi gì gì nữa, đều mất luôn lòng nào ngồi đánh máy cho yên? Nhưng cũng vẫn bắt buộc phải ngồi đánh máy để quên hết việc ngoài tai, lại nữa con người chỉ có một lần chết? Chỉ tội đọc tin đồng bào chạy nạn từ xa xôi Đà Nẵng, rừng già miền Trung, chạy bộ vào Miền Nam, của mất nhà tan, bổn mạng còn rẻ hơn loài hạ thú, bất giác tủi hổ thấy mình vì kiếp sống thừa chật đất, có mắt ngó có tai nghe mà vô khá nại hà. (Ai dám nói sống dai thấy nhiều, là có phúc?) (Trang nầy đánh máy đến đây thì tối lại ông Thiệu tuyên bố từ chức Tổng thống trên đài truyền hình 21-4-1975).
3) Ngày ba mươi tháng chạp Ất Dậu (12-2-1945), đứng trong nhà ngó ra thấy bạn học cùng trường ở Chasseloup năm xưa là Nguyễn Ngọc Chỉ, nay là tri phủ làm việc trên Tây Ninh, về nghỉ phép ở Sốc Trăng, đi ngang nhà, quần đùi tay sơ mi lòi cùi chỏ, thế mà đầu đội nón cát trắng lại có gắn huy hiệu của chánh phủ đô hộ ban và chỉ được phép dùng khi mặc âu phục đại lễ. Không thể nín được vì xốn mắt quá, nên phải gọi lại mà rằng: “Chỉ à! Đợi phải cần đội nón có huy hiệu “tri phủ chủ quận” ấy thì người ta mới biết mầy là ai hay sao? Uổng vì tao nay là một thằng dân quèn nên không thể nước mấy vào nhà, nhưng tao vẫn không quên bài ngụ ngôn “Bạn học trò, một người đậu một người rớt” của ông Trương Vĩnh Ký. Mầy về lấy ra coi lại. Chỉ giận lắm mau mau đi một nước, và sau mất tại Trà Vinh, vì không chịu ăn theo thuở, ở theo thời (bất thức thời vụ).
Mải ham nói chuyện cà kê nghê ngỗng mà tới ngày quan trọng thứ sáu 9-3-1945 mà không hay biết gì. Xin các bạn chịu khó tìm đọc quyển hồi ký “1925- 1964, tập II từ 1945 đến 1954” của ông Nguyễn Kỳ Nam thì biết. Sách nầy đọc thật hấp dẫn và tả cảnh binh Nhựt trong đêm ấy thủ tiêu chánh quyền đô hộ Pháp và khuya 12 giờ, tuyên bố giải tán chánh phủ trào Tây ở Đông Dương.

Tin nầy đến sáng ngày 10-3-1945 thành phố Sốc Trăng nghe radio mới hay Toàn quyền Decoux đã bị Nhựt bắt làm tù binh và cả thành náo động như ong vỡ tổ, nhưng vẫn bán tín bán nghi, bởi tám chục năm nô lệ không dễ gì tháo bỏ trong một giây phút, mơ màng e nỗi radio đồn tin thất thiệt. Một điều lạ mắt là thấy các quan lang-sa, từ quan bố đến ông cò, đều ra chợ mua và giấu hối hả những nhiên liệu giấu được và còn mua được như dầu xăng, rượu cồn để chạy xe, dầu nhớt, vỏ ruột xe v.v... Họ bắt các tàu dưới sông phải đậu một chỗ để chờ khi có việc họ dễ dàng tẩu thoát và lúc nầy mới thấy họ phần giống chuột hơn giống người, nhưng biết thì biết vậy, nào dám nói ra vì họ có súng và đang điên loạn. Nói thật, ban đầu cũng không thấy chi đáng sợ, chỉ biết họ sắp sửa trốn bỏ cho mình ở lại bơ vơ để lo tự thoát thân và chỉ biết mau mau ra khỏi tầm tay quân lính Nhựt mà thôi.
Ngày 11-3, radio tuyên bố rằng quân đội Nhựt thông cáo cho các sắc dân Đông Dương biết rằng khởi từ đây, Đông Dương được độc lập, nhưng buồn cười là độc lập ấy đầu tiên đặt tạm dưới quyền bảo hộ của Đại Nhựt Bản! Buổi chiều ngày 11-3 có một tốp lính Tây và quan Tây hôm trước chạy trốn, nay trở về khá đông tụ tập ở chợ Bãi Xàu, rồi cùng với tên Siccé là lính đoan coi lò nấu rượu làng nầy, đồng kéo qua chợ Sốc Trăng, ào vào các hiệu buôn khách như Di Ký, Diễu Hưng. Di Lạc, Vĩnh Dũ Nguyên, bắt buộc những nhà nầy có bao nhiêu thực phẩm, đồ hộp, rượu chai, giấm chua, đường và hộp quẹt, v.v., phải đưa nạp cho họ, và khi các nhà buôn yêu cầu xuất trình giấy “bông” (lúc đó hộp quẹt bán, phải có “bon” do chánh phủ ký mới mua được tức thì họ chìa súng lục ra rồi đi luôn, mà các hiệu buôn thấy họ rút lui là đủ hú hồn hú vía, nào cần chi tiền. Thành phố Sốc Trăng lần thứ nhứt bàn tán lăng xăng rằng mới thấy ông Tây mua không trả tiền mà mấy ông Ba Tàu không nói gì. Tại sao lúc nầy kẻ thì dữ quá còn người thì hiền quá? Và cái gì làm cho họ đổi thay tâm tánh mau quá vậy?

Ngày 12-3 nhằm thứ hai, 28 tháng giêng ta. Có tin đội quân đội Nhựt đã đổ binh sang khỏi sông Bassac và đã kéo tới thành phố Cần Thơ. Dân thành phố Sốc Trăng bắt đầu xao xuyến. Nhưng nỗi lo sợ đến cùng tột, khi đến chiều lang-sa đưa lính đặt chôn trái phá dưới gầm cầu quây kinh xáng Maspero, định phá huỷ cây cầu sắt độc nhứt nối liền Cần Thơ qua chợ Sốc Trăng; khi ấy ai nấy đều kinh hồn thất sắc, kể như sẽ chết hết, vì thuở ấy chưa ai hiểu sức tàn phá của trái phá lang-sa là dường nào.
Ngày thứ ba 13-3 (29 tháng giêng Ất Dậu). Sáng dậy sớm thấy bộ tịch mấy ông Tây khăng khăng quyết tử thủ, nên sợ, vợ chồng tôi đưa nhau xuống tản cư nơi trại ruộng, trọn ngày đóng cửa khin khít, sau rõ lại Tây họ giả bộ kháng chiến cho dân sợ, rồi Tây rút êm trốn hồi nào không hay.

Ngày 14-3-1945. Thứ tư, mồng một tháng hai Ất Dậu. Bữa nay mới thật là ngày đáng kỷ niệm cho tỉnh nhỏ Sốc Trăng để nhớ thuở bị binh Nhựt chiếm đóng. Sáng vừa năm giờ, trời tưng bẩng tôi đã thấy lính Nhựt lù lù đi ngang hé cửa hai bên phố đường Đại Ngãi. Họ chia ra nhiều tốp để nhập Châu Thành, tốp đi ngả giữa đường Đại Ngãi nơi có nhà Ba tôi ở; tốp khác đi bọc ngả mé kinh lấp có nhà ông Phán Sáng; một tốp nữa đi ngả Chợ Cá nhà bà Phủ An. Tôi lấp ló kẹt cửa, thấy rõ lính Nhựt đi hai hàng, tay cầm súng trường đầu gắn lưỡi lê, chân bước chậm chậm, mất ngó kỹ đôi bên, còn giữa đường có một tốp hộ tống một ông tá bốn lon, cao lớn dình dàng dẫn đầu, gươm dài tuốt trần, cán gươm lấp lánh một máy radio nhỏ xíu để bắt nghe tin tức, mệnh lệnh.

Họ kéo qua cầu bon, đến dinh Tham biện chủ tỉnh, thì ông Barthel đã trốn mấy ngày trước rồi. Họ thất vọng kéo tới nhà các quan toà. Có một ông da cà phê sữa sớn sác còn nói tiếng Tây và xưng mình là Président. Họ nghe thấp thố tưởng đó là Résident, tức quan đầu xứ, họ sai lính bắt trói đem kê sát vách tường định bắn, thời may viên thông ngôn cắt nghĩa lại, Président du Tubunal có khác với Résident de province, nên ông nầy thoát chết trong đường tơ kẻ tóc. Quả ông nầy chưa tới số! Tuy rằng tha chết, nhưng họ bắt dẫn theo làm tù binh. Đó rồi họ kéo tới ty ngân khố. Mụ Hémon, vợ ông kho bạc, nguyên là con gái của ông Favier, phó giám đốc trường máy đường Đỗ Hữu Vị, nơi tôi đầu quân năm xưa, mụ Hémon đang pha cà phê buổi sáng. Nhờ nhạy linh tính, mụ cầm một tách nóng hổi hai tay dâng cho ông tá Nhựt. Ông nầy kéo ghế ngồi xuống hớp từ hớp cà phê ngon lành, và không xiết lời cảm ơn. Sẵn trớn, mụ mới thỏ thỏ mét ông quan tư rằng ban nãy mụ ra sân xuống bếp lấy hũ đường, mụ bị một lính Nhựt sờ vào má! Ông tá hiểu được đứng dậy ra sân trống, gọi các quân lính xếp làm hai hàng sau ngân khố, mụ chỉ ngay người lính đã xúc phạm mụ, lập tức ông tá gọi người lính bước ra khỏi hàng ngũ, xáng cho mấy bốp tai nháng lửa, thấy đủ ba mươi sáu ngọn đèn, xử phạt xong ông day lại mụ Hémon và chậm rãi nói: “Thưa bà, tôi có phận sự đến đây giải giới tất cả người Pháp và bắt họ làm tù binh. Chồng bà và bà cũng bị bắt. Nhưng vì tách cà phê ban nãy, vây tôi cho phép bà trở vào nhà lựa những gì quí báu thu góp vào một xách tay. Tôi cam đoan bà sẽ không mất món nào, vì quân lịnh của đạo binh Nhựt là quân lịnh sắt. Bây giờ mời bà hãy mau tay để kịp lên xe!”. Mà quả thật, mấy tháng sau sau khi quân Nhựt đầu hàng, mụ Hémon theo chồng trở lại Sốc Trăng, khi gặp tôi, việc đầu tiên là mụ cười cái miệng móm xọm và không ngớt ngợi khen quân đội Nhựt vì suốt mấy tháng bị giam cầm cái xách của mụ có trên năm chục lượng vàng lá, không hao đến một ly!
Sau khi ông tá làm xong phận sự đi lùa bắt Tây, đến trưa gần Ngọ, có một ông tướng lãnh Nhựt ngồi xe sơn màu lá cam, ghé toà bố, ra lịnh cho cai hầu ra mời thân hào nhân sĩ, các nhà tai mắt và công chức lớn nhỏ tề tựu tại dinh tỉnh trưởng và ra chỉ thị cấp thời lập Uỷ ban cai trị như đã tả nơi trang trước. Tôi không tham dự mấy lần nhóm họp nầy, vì muốn ở ngoài càn khôn để được tự do.
“Sớm khuya, khăn mặt, lược đầu.
Phận con hầu, giữ con hầu, dám sai!” (K.V.K)

Ngày 15-3, hay tin ông chủ quận Châu Thành, coi luôn ty cảnh sát thành phố là ông đốc phủ Ngô Văn Nghị. Nhớ lại mới đây, ngày 25-2 có ông Đoàn Quan Tấn, hội trưởng hội khuyến học Sài Gòn cùng xuống đây với cố giao Hồ Đắc Thăng, diễn thuyết về nghệ thuật hát bội, mình được mời cùng dùng cơm tại dinh, nay ông lên làm trưởng ty cảnh sát, ắt ông không làm khó dễ sòng thín cẩu, vì biết mình chơi cầu vui chớ không có máu cờ bạc. Mừng lòng một đỗi.
Ngày 16-3, có bạn nhỏ Đức, Thanh niên tiền phong, đến cho hay không chừng mình sẽ được cử coi ty thương chánh, mình cười và năn nỉ hãy để được yên, e khi vào đó thấy kho á phiện, động lòng tham thì khốn!

Ngày quân đội Nhụt bắt và giải về giam tại lữ xá băng-ga-lô tên Siccé, trước coi lò nấu rượu trắng công xi ở Bãi Xàu và lão Canavaggio, là trưởng ty mật thám Sốc Trăng. Nghe nói Canavaggio có bị đánh, nhưng không biết nặng hay nhẹ. Làm cái nghề đánh người, nay người đánh lại, cũng là oan oan tương báo.
Ngày 17-3, nhóm thanh niên biểu tình dán giấy tuyên bố “Việt Nam độc lập”. Có tên Pháp Fauvel là người đi mua lúa đứng cho hãng Continental, chẳng lành thì chớ, nhè xé bố cáo của thanh niên, bị bắt giải cho quan Nhựt ở băng-ga-lô, ông nầy đánh vài bốp tai, nếu tên Pháp biết lỗi nhẫn nhịn bao nhiêu cái tái tai không chống lại thì việc đến đây ắt chấm đứt, ngờ đâu tên nầy không chịu xuống nước cầu hoà và vung tay thoi lại, khiến cho quan Nhựt nổi đoá, dạy lính bắt trói anh ta dắt đi khắp chợ phố cho trẻ nhỏ hành hà, mặc tình đánh đập. Có người chủ tiệm mộc tên Lưu Trọng Quyền, chủ hiệu Việt Nam mỹ nghệ, là nặng tay hơn cả. Đến chiều quân đội Nhựt giải Canavaggio, Siccé và Fauvel xuống tàu đi Ngã Năm, bắt dẫn đường để nã tróc thêm những người Tây lẩn trốn trong vùng nầy. Lúc giải xuống tàu, thiên hạ đúng coi nườm nượp.

Ngày 18-3 nhằm chúa nhựt. Nghe nói có lịnh không cho người Nam lai vãng và thông đồng nói chuyện hoặc cho đồ ăn cho người Pháp bị giam lỏng ở băng-ga-lô. Trái lại, người Pháp quá nhát gan, sợ người Việt oán thù, nên hạ mình xin quân Nhựt ủng hộ, rán canh gác cho kỹ kẻo người Việt nam cho ăn đòn, oan mạng. Nếu lương tâm họ trong sạch thì đâu có cái sợ vô lý như thế? Buồn cười là họ quên tất cả đến lầm gởi tánh mạng trong tay đại thù địch Phù Tang! Quả gởi trứng cho ác!
Ngày 19-3-1945 nhằm ngày thứ hai trong tuần. Hôm nay nghe nói sẽ có hai cuộc biểu diễn: một là chở các quan lang-sa lên Cần Thơ, hai là nhóm thanh niên biểu tình. Và tôi là khán giả khỏi trả tiền mà sẽ đi dự kiến như đi xem cải lương. Té ra vì tánh tọc mạch và tiểu nhân thiếu độ lượng (coi Tây làm tù binh) mà tôi bị kẹt như đã nói ở đoạn trước, tôi nghe tiếng đồn thanh niên đòi đả đảo:
a) ông chủ quận châu thành, họ trách ông còn quá ưa Tây và ông đòi giải tán họ!
b) ông phủ đứng đầu công chức toà bố thì quá ưa hộp quẹt và ưa bông mua vải
c) ông phủ Trần Văn Tân, là một tên sâu dân mọt nước, một đồng bạc cũng ăn, ăn hết không chừa!
Thanh niên lại chê ông kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích là “làm phách”, còn ông luật sư N.V.D, thì thân Tây hơn thân Việt và biết tiếng mẹ đẻ ít hơn tiếng lang-sa. Ông toà thì họ chê có vợ đầm, ông đốc công trường tiền thì họ chê nói tiếng Tây còn trật (Trần Tân và Đỗ Văn Trà). Tôi nghe ngóng nhàm tai, trong thâm lâm tôi phát sợ một cái gì xảy ra, nên khi bốn xe camion chở người Pháp đậu trước dinh ông Chánh vừa sấp sửa lăn bánh thì tôi lật đật về nhà. Nhưng vừa về tới và chưa cởi áo, thì có chủ tiệm rượu Hoà Bình tửu, tên là Cu Liếm, lúc đó là một thanh niên xốc xáo nhứt, đến gọi tôi gấp trở ra toà bố vì đám biểu tình “muốn cần dùng gì đó”. Ấy rồi tôi bị kẹt như đã nói nơi đoạn trước. Và cho hay trăm sự, “hư” cũng tại mình. Nếu tôi là gái chính chuyên, không dốc lòng “làm đĩ” một phen nữa, thì tại sao tôi “đứng ra đường cả buổi như ban nãy?” Bởi tôi bán dạng thuyền quyên, chán chường khoe mặt mốc, thì nay còn than van “thanh niên mời mọc” làm gì cho thấy dối lòng? Quả tôi giấu đầu lòi đuôi. Và cử chỉ của tôi là cử chỉ của một thằng tự mâu thuẫn lấy mình. Thú thật, tôi có hành động như vậy, cũng vì một chút hiếu thắng. Mấy chục năm thi rớt mãi, và mãi lận đận lao đao nơi trường ốc, tại sao không cho tôi “đánh ba búa” chơi như tướng hề Trình Giảo Kim trong truyện Thuyết Đường? Xin chớ cười và ai có qua cầu mới hay mới biết! Đánh được ba búa cho sướng tay rồi sẽ xuống, có hại gì?

Nhưng khi lâm sự, lên ngồi lưng cọp rồi mới biết. Bỗng thinh không tôi để thanh niên lôi tôi ra, và làm cho tôi từ rày mất hết tự đo Còn gì cái thú “ăn lương hàm chánh thất” (ăn lương của vợ), sống lêu lổng ngoại càn khôn, rong chơi hút gió, gọi là “thả xệch phê” (do chữ siffler là hút gió) ngày ngày cùng a-xẩm, á-múi (a-muội) xoa bài mạt chược vui cười qua ngày tháng, và thôi rồi từ giã cái tự do, từ rày phải tập làm nghiên, chỉnh túc y quan, sáng vác ô đi, tối vác về, và một khi trở vô chung lo việc nước, thì thân không khác con bò kéo xe cỏ cho bò khác ăn, và từ đây phải bỏ hết những gì hư, tập tánh nết trở lại đường hoàng, cho xứng đáng bộ mặt Phó chủ tỉnh?
Mà ăn cái thá gì, vì vẫn làm ông Phó mà trả lương theo lương thông phán hạng nhì, không tới hai trăm bạc mỗi tháng! (tính ra tôi trở vô làm từ ngày 19-3 cho đến ngày 4-6-1945, lãnh lương được 437$56! Thấy thảm não quá ông chủ tỉnh lâm thời nhóm Uỷ ban dạy xuất tiền công nho làng phụ cấp thêm 500$00, vị chi tôi lãnh được cả thảy là 937$56).

Cái số của tôi là số “dã tràng xe cát”, một đời cực nhọc không công cán gì! Lại còn mang lời ăn tiếng nói! Lúc còn làm nơi dinh thống đốc, tuy là thơ ký quèn nhưng anh em chúng bạn đều nể mặt. Nhà dư ăn, không thiếu nợ ai. Công việc làm, dịch điện tín mật mã và ghi chép công văn mật, là việc trọng yếu, tôi làm tròn phận sự nên Tây tà đều kiêng; các người trên trước tôi, ông Ngôn, bà Bá đều có học lực và hạnh kiểm cao, bạn bè ngồi chung quanh đều hay giỏi, và tôi học khôn với họ rất nhiều. Từ khi rớt kỳ thi huyện chót (1942), tôi thấy tương lai không ngõ thoát, nên tôi xin nghỉ việc. Tôi có linh tính nếu kéo dài đời công chức ở đây, có ngày Nhựt lên nắm chánh quyền thì cái kiếp làm nô lệ vẫn y như cũ nếu không nói là thay chủ mới còn e bóp siết nặng nề hơn, và “làm đĩ” một lần với Tây cũng đủ xấu hổ trọn đời! Tôi không muốn trải thân cho ông bạn lùn giày vò bóp méo vo tròn, ngờ đâu kiếp làm tôi mọi cho ngoại bang vẫn còn nặng nợ, xin được trảm giam hậu nhưng không dễ gì xin đại xá.
Chánh phủ Pháp không cho tôi từ chức, và đã ban đặc ân cho tôi đổi về xứ sở ấp ủ se ấm mấy ngày tàn của cha già đã trên bảy mươi tuổi. Kế hoạch của tôi là dốc lòng thoát thân, nhưng tôi đã thất vọng to. Tôi còn luyến tiếc kiếp sống an nhàn “bơ sữa”, dè đâu về đến tỉnh nhau rún ở chung một nhà với cha, mới hiểu muộn màng câu “Xa mỏi chân, gần mỏi miệng!” Ba tôi tuổi Đinh Hợi (1887), tôi lại tuổi Nhâm Dần (1902), cách xa thì như thường, đáp lại gần thì xung khắc. Tánh tôi thêm lỗ mãng quen nết con cưng và con hư. Bình nhựt với chúng bạn, tôi quen ăn ngay nói thẳng giận thì tôi chịu. Nay với cha già, bay giờ nghĩ lại ăn năn đã muộn, vì nhiều việc vặt vãnh, tiền chợ tốn hao, ba tôi vì già chịu nấu cho mềm, tôi thì còn trẻ lại thích gân giòn xương sụn, mỗi lần nấu nhừ, hễ vừa miệng cha thì không vừa miệng con! Tánh tôi lại ham gây gổ, thấy việc trái dẫu là ông phủ, ông gì, tôi cũng không nhịn. Nhưng tôi được tánh thích làm vừa lòng kẻ dưới, nhất là đám em út bạn nhỏ, dẫu lỡ chửi tôi cũng nhịn, và thường hay binh vực kẻ yếu chống chọi người bề trên. Từ ngày đồi về Sốc Trăng, tôi không học thêm được gì nữa, vì nhân viên toà bố đều lục lục thường tài. Tôi lại bị giao trọng trách coi về hành chánh, giữ hộ tịch bộ đời Pháp, nhứt là “đứng bàn ông chánh” tức làm thông ngôn cho chủ tỉnh, mà có khi ông phó cũng xâu tôi làm thông dịch viên luôn, thế là tôi “đứng cả hai bàn chánh phó”. Chỗ nầy đối với người khác thì “no” lắm, vì kiếm chác được nhiều, tỉ dụ xin nhập tịch dân Tây, xin sắm súng hộ thân, xin khẩn đất, xin cất nhà, v.v., nhưng tôi cứ “nét thắng như mực Tàu”, tôi không ăn hối lộ vì đã có vợ giàu, tôi lại cứng cỏi, vì biết mình trong sạch nên coi Tây tà và các nhà thế lực trong tỉnh như không có. Làm việc ở toà bố được một năm, xảy ra việc ông cai tổng Nhiêu Khánh là tổng châu thành, lục cụ Thạch Suôn từ trần. Tôi viện lẽ mấy tháng sau nầy thường đau yếu, tôi vừa nằm nhà thương sở tại và còn nghỉ dưỡng bịnh, tôi mượn các cớ ấy nên nói với chủ tỉnh xin cho tôi từ chức, hưu trí non (hưu bổng tỷ lệ), để có dịp ra ứng cử cai tổng thế ông Suôn, và như vậy tôi vẫn còn phục vụ trong chánh phủ. Thế là ông B. mắc kế tôi, vì khi được cho về hưu, tôi phỉnh lờ việc ra tranh cai tổng. Như vậy, tôi được nghỉ việc trong buổi trong xứ còn chiến tranh, mà tôi không bị khiển trách vì tôi hội đủ điều kiện, đủ thâm niên về hưu, và việc tôi làm vẫn hợp lệ đúng như luật định.
Nhưng số trời khó chạy, và tôi đã lính già ra non! Vợ trước của tô, cô Tuyết, quen sung sướng ở Sài Gòn, bài bạc không ai nói, nay về chung một nhà với cha chồng em chồng, tù túng bực bội, nên thường mượn cớ lên Sài Gòn buôn bán kim cường, ban đầu đi về ít bữa, sau kéo dài hàng tuần rồi hàng tháng.., cái hoạ bội tâm đã nẩy mầm từ đây. Thêm nỗi tôi vì quá mê đồ xưa và quá tin người bạn trăm năm (nay đã hết trăm năm), bởi tin nên mắc, quá nghe nên lầm! Cái tội bất hiếu của tôi và tội làm chồng bất xứng, thôi thì khỏi nói!

Từ ngày thôi làm công chức, đời tôi đã hư nay còn thêm lậm. Tôi trở nên một “ông viên ngoại” rất nhàn nhã, và rất hư thân. Cò bót làm ngơ, sức bực tham biện chủ tỉnh, tôi muốn vào văn phòng lúc nào cũng được, khiến nên nhà tôi, số 31 đường Đại Ngãi là một nhà xét (cercle) thín cẩu đánh công khai chứa hai sòng bài, bài con chim chơi tôi ngày sáng đêm không dứt, cửa ngõ không đóng và đèn đốt thuốc phiện rần rần, chung quanh cái đi-văng đỏ “long phụng sàng” lót ngay sa lông ngó ra đường cái, là nơi anh hùng hội, đủ mặt trai hư: Bảy Thà (Kế Sách), Tư Chẩn (Bãi Xàu), Y (con trai Tám Nam Thành), Mười (con ông trưởng toà Kiều), v.v., và thỉnh thoảng lại có sự hiện diện của Việt Hùng, lúc ấy chưa trổ mặt nghệ sĩ hữu danh cải lương như nay, và vẫn còn khoác áo tiểu công chức, nhưng đã thành thạo đủ nghề ca ngâm và khi cao hứng thường đến cho chúng tôi nghe những bản thúc giục lòng ái quốc và những bản cải cách nung nấu lòng kháng chiến chống quân xâm lăng: “Bà Tư bán hàng có bốn người con” v.v...
Ấy, tôi đang ở trong cảnh “giả dại qua ải”, muốn bài bạc để quên cảnh rối rắm nước nhà, Bá Lạc Đài (nhà xét của tôi) thực ra không phải để đóng vai vua Trụ mất nước”, kỳ thực đó là hình thức bề ngoài để che mắt nhà cầm quyền Pháp, khiến họ quên tôi kể như một công chức về vườn vô thưởng vô phạt.

Ấy nay vì đám thanh niên tiếc mến chút tánh tháo vát và tánh cứng cỏi của tôi rồi bỗng kéo tôi xuống khỏi đài truỵ lạc chơi bời ấy và sáng hôm 19-3, lại đẩy tôi lên diễn đàn nầy, là cái bệ lan can ngay thang lầu văn phòng ông chánh cũ, bảo tôi tuyên bố ít lời cảm ơn vì được cử làm phó hội trưởng Uỷ ban cai trị trong tỉnh, là tuyên bố làm sao? Họ lại bảo tôi nhậm phận sự tức khắc, không được diên trì vì thời kỳ quá cấp bách. Theo họ phải có người ký tên giấy thông hành tạm, bài sanh ý và bài thuế trâu ghe, không thì công việc của tỉnh phải đình trệ hết. Rõ sướng cho tôi chưa?
Nhưng quả thật không sướng chút nào! Tôi từ giã đám bạn nhỏ thanh niên, mà tôi thề không có giao thiệp và vận động cho họ đề cử tôi như vậy, tôi bước vào văn phòng chủ tỉnh, ra mắt ông hội trưởng Lâm uỷ hành chánh là ông đốc phủ sứ Võ Văn Đảnh, vốn là bạn cũ quen biết nhau từ lúc còn làm chung một toà bố ở Sa Đéc, lúc ấy ông là huyện đứng đầu phòng địa bộ điền thổ, còn tôi là ký lục phát ngân coi về bút toán ngân sách địa hạt. Tôi chào và bắt tay ông. Tôi tỏ vẻ ái ngại, nay không muốn làm thì cứ trái lòng thanh niên cũng khó, bằng nhận làm, thì e tài bất kham trọng trách, thiệt là nan giải; và thật ra tôi không có nhúng tay vào việc biểu tình, không tham dự cũng không xin xỏ việc đề cử ngang xương nầy. Tôi còn nói nữa, nhưng bao nhiêu ấy đủ làm ông Đảnh chia xớt nỗi lòng. Ông bắt tay đưa ra cửa, khuyên tôi chiều vô làm việc và nên tạm nhận hai phòng búl toán công nho tỉnh, là nghiệp cũ sở trường của tôi, dầu sao cũng ít nặng nhọc hơn ghế phó hội trưởng. Tôi vừa ra khỏi cửa, đám thanh niên chận tôi lại, tôi thú thật hết và họ cương quyết dặn tôi đừng chịu áp lực bất cử của ai: “Làm phó hội trưởng thì làm, bút toán đã có người khác”.
Và việc gì phải đến, đã đến.
Từ ngày 19-3, tôi trở vô toà bố với chức phó tỉnh trưởng, tiếng nghe cho rôm, chớ lợi lộc danh giá gì? Tôi dư biết đang đóng vai tuồng thằng hề làm trò xiệc đi dây chọc cười, thằng ngổng đánh đu bầu (chớ chi được đánh đu tiên có đào lịch sự thì cũng đáng), và ngày nào tôi rủi lé xuống đài, dẫu chết phơi thây cũng chẳng ai thương! Tôi biết dư, làm đây là làm tạm thời, trong cảnh ngộ dầu sôi lửa bỏng, chớ ngày nào trong tỉnh trở lại bình thường thì tôi sẽ được “mời” ra lập tức và cái cỗ ngon lành dọn sẵn nầy, sẽ có người trên Sài Gòn được bổ nhiệm xuống hưởng, thứ đồ bất tài thi rớt như tôi, mấy đời ai cho vượt bực, ngồi trên ngồi trước người thi đậu? Trong bụng biết vậy, nhưng nay cờ đã về tay, không phất há chẳng “phi anh hùng”!
Công việc khi vô thấy rất bề bộn, ứ đọng nhiều ngày, nhưng tôi đều coi là thường, vì tôi đã quá quen thuộc, và đều thu xếp ổn thoả, đến ông Đảnh cũng ngạc nhiên và mừng thấy tôi làm việc được: Thật tình mà nói, thanh niên có mắt và biết lựa, biết tánh tôi ngay thẳng ắt làm xong đâu vào đó, nhưng họ quên và tội nghiệp cho tôi, vì làm theo công tâm, nói nghe thì dễ, nhưng đụng chạm rất nhiều. Những ai thương tôi cũng có, nhưng người ghét và ganh tôi thật ra không phải ít:
- Ngày 20-3, mới vô làm được một ngày, sáng sớm vừa để chân vô toà bố, gặp ông Đảnh từ trên lầu bước xuống, cho hay trọn ngày ông sẽ vắng mặt vì phải lên thị sự đất giá công điền ở quận Kế Sách, và ân cần dặn tôi “hãy coi tiệm, coi nhà cho vén khéo”, “những giấy tờ quan trọng để đó tối về ông ký”.
Trời tối sẩm ông Đảnh vẫn chưa về, đợi mãi không được, tôi lui cui đạp xe về nhà, vừa ngồi vào bàn lùa được một miếng và, bỗng có đội Tỷ, là lính hầu sau đóng lon quản, chạy đến hối, có hai ông quan võ Nhựt muốn gặp gấp. Cuộc tiếp xúc hoà nhã, tôi thừa dịp xin họ dễ dãi cho ba ông Tây làm sở dẫn thuỷ nhập điền, nay còn kẹt ở vàm Cổ Cò, hiện muốn ra trình diện chịu làm tù binh, ông sĩ quan Nhựt chịu ký giấy để lại cho họ cầm đi Cần Thơ vô sự. Khi ông Đảnh về, hay tin nầy, ông tỏ vẻ rất bằng lòng cách tôi dàn xếp mau và khéo như vậy.
- Ngày 22-3 - Hôm nay Uỷ ban cai trị nhóm kỳ đại hội lần thứ nhứt, tôi thủ vai thơ ký Uỷ ban. Tự tay bao gồm từ tả tờ vi bằng phiên nhóm và thảo hết thơ văn và nghị định. Bản thảo ông Đảnh chấp thuận không sửa đổi câu nào.
Ngày 24/3 - Có lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Châu Trinh. Thức đêm viết bài nhắc công đức, sáng ngày ông Đảnh cử làm đại diện đọc trên diễn đàn đặt nơi công trường Hai Hình. Nhờ có ống phóng thanh do Nguyễn Văn Thân, con ông Đại, cho mượn, trên năm trăm người dự kiến và dự thính đều tỏ vẻ hài lòng. Một phụ nữ, bà sương phụ Phủ Chiếu, không cầm lòng đậu, lấy khăn lau nước mắt mãi. Sáng ngày bà lên toà bố xin một bông rượu cồn để lên Sài Gòn có việc, bây giờ mới hiểu nước mắt mỹ nhân là do không có rượu chạy xe hơn là cảm vì giọng vịt đực mình lên bổng xuống trầm.
Ngày 25/3 - Hôm nay, chúa nhựt, có thanh niên biểu tình. Sau khi kéo đi cùng đường, họ về tề tựu tại công trường Hai Hình. Có năm người ghi tên diễn thuyết. Mình đứng nghe:
1) Thầy sáu Trần Ngọc Vĩnh, đông y sĩ, mừng Việt Nam độc lập và cám ơn Đại Nippon (sic);
2) Phan Mỹ Nhựt, làm sở Bưu điện, nói về chủ nghĩa Thanh niên;
3) Võ Văn Hai, cũng làm sở Bưu điện, nói về ý kiến của Thanh niên đối với những trang sử oai hùng: chống Nguyên, kháng Minh, vua Quang Trung, Nguyễn Thái Học;
4) Lâm Văn Nhơn, thơ ký toà án, nói về ý nghĩa và sự hy sinh của dân Việt Nam;
5) Lê Văn Lý, con ông Xếp Lỏi, nói về chủ nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Tương như vậy là dứt, sửa soạn ra về, té ra thanh niên kéo mình lên diễn đàn. Không từ chối được, mình ứng khẩu về ý nghĩa bốn chữ Tận trung báo quốc của Quan Công Hầu và bốn chữ Tin trung báo quốc của Nhạc Võ Mục.
Ngày 26/3 - Lên lầu đưa công văn cho ông Đảnh ký, ông khen “Anh viết văn xuôi hay quá”. Mình cám ơn và thuật lại chuyện Diệp Sanh trong Liêu Trai, nữa đời luân lạc thi mãi không đậu, sau vâng lời một ông quan đỡ đầu, theo ông nầy về kinh, kèm dạy cho con ông ấy thi đậu và thành tài, Diệp Sanh cũng đậu khoa ấy, nhơn đi phó nhậm, con ông quan đưa Diệp Sanh trở về cố trang thì vợ Diệp Sanh khóc lạy rằng vì nghèo, quan cửu của chồng chưa chôn nay xin hồn ma đừng về khuấy phá. Nghe đến đó bỗng thấy Diệp Sanh sụp xuống, chỉ còn áo mão một đống còn người đâu không thấy. Bây giờ mới rõ lại, lúc ông quan sai người mời Diệp Sanh theo về kinh thì Diệp Sanh đang đau nặng, và chỉ cái hồn xuất ra đi theo người mời, còn cái xác trơ ở lại cho vợ gói ghém tẩm liệm. Cho hay cái tinh anh của một người bất đắc chí nó mạnh như vậy. Nay tôi tự ví như Diệp Sanh còn anh là ông quan đỡ đầu cho tôi đó.
Nghe đến đó. Ông Đảnh cười, ngó tôi mà rằng: “Chuyện anh kể nghe sao bi thảm quá. Mà anh là Vương Hồng, đâu phải Diệp Sanh?”. Ấy cái tình giữa hai tôi nồng nàn thân thiết như vậy, nay ông Đảnh đã thành người thiên cổ duy tôi luân lạc vân còn luân lạc, ai nói sống dai là hạnh phúc?
Ngày 27-3, ông Đảnh đi Bố Thảo (Thuận Hoà) chủ toạ cuộc đấu giá đất công điền bỏ tôi ở lại toà bố; ông Nghĩa thanh tra tiểu học kiêm thủ lãnh thanh niên, bảo tôi ký các giấy trưng dụng súng của các điền chủ làng Mỹ Phước, tôi tỏ vẻ ái ngại vì chữ ký ông Phó lậu vô giá trị, nhưng ông Nghĩa vẫn bảo ký, cười mà rằng: “Ký đi! Không sao đâu! Chỉ mình hai tôi (Đảnh và Nghĩa) có nói chuyện anh” (Câu nầy tôi ghi lại y nguyên văn, và có lẽ có một nghĩa nên hiểu ngầm).
Ngày 28/3 - Thứ tư, rằm tháng hai Ất Dậu. Ngày nay phí phạm sức khỏe nhiều nhứt và chỉ làm việc không công, “gánh bàn độc mướn”, làm cho người khác hưởng, còn mình vẫn “hoàn cốt khỉ”.
Phải chăng kiếp trước làm mọi bá gia? Sáng nầy, cả toà bố đều náo động, vì có quan Phó Thống đốc Nhựt, Satoh, lần đầu viếng tỉnh, với nhiệm vụ thanh tra tình hình cai trị các tỉnh. Mặc dầu ông Đảnh làm chủ tỉnh nhưng do quan hai Nhựt và thông dịch viên Sếp Hên nói sao với ông, mà ông chỉ tiếp xúc với mình. Tôi phải vừa bổn thân ghi chép khẩu lịnh ông truyền, và noi theo đó đặt để lại tờ sự vụ lịnh bằng Pháp vãn, tự đi đánh máy và trình lên cho ông đặt chữ ký vào, nhứt nhứt đều một mình làm cả.
Đến 12 giờ trưa, bổn thân mời ông Satoh và ba ông sĩ quan tuỳ tùng qua dinh chủ tỉnh dùng bữa cơm. Ông Satoh ngỏ ý cậy tôi đi kiếm mua cho ông một đôi bít-tất mà ông gọi tiếng Pháp là socquette, và dặn giá nào cũng mua, dẫu trả theo giá chợ đen cũng không sao! (même s il le faut, au marché noir). Mua được đem về, xem bộ ông rất hài lòng và mời mình ở lại dùng bữa, nhưng mình xin kiếu vì ngày nay là rằm, ăn chay. Lúc ấy nếu quả mình muốn xin cho làm thiệt thọ, thì đây là dịp may hiếm có để ớ lại mặc sức xin xỏ, nhưng mình đã có ý riêng, chỉ mong thoát khỏi biển trầm luân và không có lòng cầu cạnh.
Tin buổi chiều ngoài phố đều đồn mình “giỏi tài ngoại giao” và làm 9/10 công việc cho chủ tỉnh. Riêng chỉ sợ nói mình bợ đít.
Ngày 23/9. Ông Satoh ở Bạc Liêu trở về, ghé nói với mình: “J ai beaucoup à faire à Baclieu” (Tôi ở Bạc Liêu có nhiều việc phải làm lắm), coi bộ ngài rất ưng bụng về tỉnh Sốc Trăng, và chính mình tiễn ông ra xe về Sài Gòn, còn ông tỉnh trưởng Đảnh vẫy tiễn trong vòng rào toà bố. Nhưng cái ngày mình bị đào thải, ông Satoh nào hay biết.
Ngày 31-3 (thứ bảy) Uỷ ban cai trị họp phiên bất thường. Ông Đào Văn Hội làm đơn xin trở vô làm việc lại, và mình làm đơn xin nghỉ việc về hưu.
Ông hội trưởng Đảnh yêu cầu mình ở lại tiếp tục làm việc chờ ông đi dự kỳ đại hội tỉnh trưởng trên Sài Gòn, đãi lịnh trung ương rồi sẽ hay.
Ngày 3-4-1945 - 4 giờ khuya có lính kêu cửa cho hay chiếc tàu sai đi bắt Tây ở Cà Mau nay hư máy nằm chình ình tại ngã tư Cái Quanh. Giữa canh khuya phải viết tay tờ lịnh khẩn cấp như vầy:
Lịnh phiếu
Cai Mã Văn Cự, được lịnh nầy phải theo tên Long Suôn xuống chiếc tàu “Phước Hùng”, truyền lịnh cho chiếc tàu nầy mở máy chạy lập tức ra ngã tư, rước nhà binh Nhựt về Sốc Trăng, không được trái lịnh nầy.
Vì gấp rút, tôi, Phó Hội trưởng Uỷ ban cai trị tỉnh Sốc Trăng, ký lịnh nầy thế cho ông chánh chủ tỉnh Sốc Trăng ngày 3-4-1945. 4 giờ sáng.
Từ 4-4-1945 đến 23-4-1945 - Không xảy ra việc chi lạ. Nhờ biết tháo vát, công việc trở lại bình thường, nhưng tự xét thấy tủi thân vì lúc làm thơ ký “chấm công ăn tiền”, nhàn hạ làm sao nay lên ngồi ghế phó tỉnh tưởng nhọc xác bằng mười, có khi phải đặt gấp tờ lịnh rồi tự đánh máy lấy cho ít mất thì giờ, rồi tự đóng dấu trước, và bổn thân lên thang xuống thang xin chữ ký của ông chủ tỉnh cho người xin việc về kịp con nước khỏi chờ đợi tốn tiền, hoặc phải thị oai nộ nạt là cái bình sanh không muốn vì chỉ làm mích lòng anh em, thêm họ cứ khuấy rầy bằng xin bông mua sữa, mua áo thun, quên rằng mình còn phải nhiều việc quan trọng hơn như đương đầu với sự đòi hỏi quẫn bách của quân đội Nhựt, của nhà thương thiếu sữa nuôi trẻ, vân vân... Càng lấy công bình và lương tâm mà làm, càng thêm đụng chạm sanh oán sanh thù.
Ngày 8-4, ông chủ tỉnh đi Sài Gòn dự đại hội các chủ tỉnh từ 9-4 đến 12-4 giao nhà coi “nhà”, may được vô sự bình yên. Coi xử lý thường vụ và ký thế...
Ngày 10-4 và 11-4, có quan Năm Nhựt chức tá, đến nói về vấn đề súng đạn và có năm ông sĩ quan khác ghé tra vấn về vấn đề kinh tế, đêm ngủ lại đây mà lữ quán băng-la-gô chưa sửa chữa, phải châm chước mượn mùng mền nơi dưỡng đường của các bà sơ, mới được êm thắm. Cũng về vấn đề mùng mền và vải drap của dưỡng đường, sau quân đội Nhựt ép mình ký giấy sung công, mình đổ thừa làm tạm chưa có giấy bổ nhiệm, nên chữ ký vô giá trị, nhờ đó sau khỏi thường tiền và nghe đâu nơi nhiều tỉnh khác, mấy ông phó nhẹ dạ ký bừa đều thường tiền túi.
Chiều đến, bảy giờ tối, cái lão Nhựt Ezaki té xe bể đầu bầm mình, mình dậy chở lên nhà thương băng bó và chích thuốc ngừa phong đòn gánh. Về sau gặp ở đâu lão cũng xí xô xí xào cám ơn, nhưng tiếng Nhựt, tiếng Ăng-lê mình nhứt định không học, tủi thân trót biết tiếng Tây, làm đĩ một lần đủ nhục!
Về một vụ lập bản thống kê lúa gạo trong tỉnh, nơi Bạc Liêu hẹn một tuần nhựt là hoàn thành, tỉnh Sốc Trăng hẹn nửa tháng. Quan Nhựt để gươm lên bàn, trách tôi không lòng hợp tác tôi bình tỉnh trả lời: “Thời gian mười lăm hôm mới đủ hỏi từ quận xuống tổng đến làng rồi chờ làng chạy tờ lên tổng lên quận mới đến loà bố. Hay ho gì hẹn gấp mà cho tin sai, thà tôi hẹn trễ mà tin đúng”. Từ ấy người Nhựt ở Sốc Trăng biết tôi cương trực và mọi việc giao thiệp đều dễ dàng. Để chứng tỏ cách làm việc, tôi ra lịnh các anh em toà bố ráp lại làm một bảng thống kê khẩn, nội một buổi sáng là xong kẻ cộng người đánh máy, Nhựt khen Sốc Trăng làm việc số dách.
Ngày 12-4, ông chủ tỉnh ở Sài Gòn về, ra lịnh giải tán nhóm Bảo An. Bữa nay, có xe thơ bắt đầu lấy thơ chạy lên Sài Gòn. Ông Đảnh đặt thơ dạy mình đánh máy, ông ký tên gởi theo xe Huê-Nam, đề nghị mình làm phó chủ tỉnh thiệt thọ. Mình vâng lời gởi đi mà mười phần biết chắc không đi đến đâu. Số mình là vậy.
Ngày 20-4-1945, có quan tư Noda cùng đi với ông Diệp Văn Kỳ đến thanh tra trong tỉnh, mình kiếm mua dùm họ được hai bịch thuốc hút Mélia bao vàng, và đêm lại sai dọn dẹp mùng mền cho họ nghỉ tại lữ khách riêng toà bố (mai son des passagers), sáng ngày mình hối hả đi vắng vì công vụ, sau nhận được tờ lưu bút của Diệp quân, và cũng là di tích chót của chủ bút tờ Thần Chung như vầy.
“Monsieur L Administrateur-adjoint,
Mr le Commandant NODA me charge de vous écrire, parce que vous étiez absent à notre départ, - ces mots afin de vous remercier très sincèrement de votre hospitalité, lors de notre passage dans votre province.
Nous avons constaté avec plaisir que sous votre sage administration, les populations de Soctrang ont continué à vivre dans la tranquillité et la sécurité la plus absolue.
En réitérant mes sincères remerciements, Mr le Commandant NODA et moi, vous souhaitons bons succès et prospérité.
Signé : Diệp-Văn-Kỳ.
Đó là bức thơ viết hối hả nên nếu có phạm lỗi nhỏ đôi chỗ nên châm chế dịch là:
“Ông phó tỉnh trưởng. Quan thiếu tá NODA có cậy tôi viết thư nầy để lại ông vì lúc chúng tôi lên đường, ông vắng mặt. Chúng tôi thành thật cám ơn lòng tử tế tiếp đãi nhã nhặn, và lấy làm vui mà thấy dân sự ở tỉnh sống yên ổn và tiếp tục sống hoàn toàn an ninh nhờ sự cai trị sáng suốt của ông. Một lần nữa, chúng tôi xin đa tạ và quan tư NODA và tôi chúc ông thành công và thịnh vượng. Ký tên: Diệp Văn Kỳ”.
Ngày 22-4, thay mặt tỉnh trưởng, điếu tang mẹ anh Thái Tân Hoà bạn đồng liêu cũ trên dinh Thống đốc và mẹ bạn Thái Tân Đồng, cùng làm nơi toà bố Sốc Trăng.
Ngày 26-4, ra Đại Ngãi đọc điếu văn thay mặt tỉnh trưởng, điếu ông Đoàn Văn Tùng, là thân phụ bạn Đoàn Bá Lộc, lục sự toà án.
Ngày 5-5, đến kỳ hậu lệ tại toà bố, có quan hai Nhựt Yamamoto dự kiến.
Ngày 6-5, đổi thiếu uý Yamamoto, ông Watanabé đến thay.
Ngày 7-5, thiếu uý Watanabé đến nhà viếng xã giao.
Ngày 9-5, quan năm Nishyama đến thanh tra. Đảnh, Hồ Văn Xuân và mình đến chào ra mắt tại sở Hiến binh. Thiếu uý Watanabé đọc diễn văn phúc trình. Bữa tiếp tân có rượu bia, đậu phộng rang muối y như Triều Châu thường dùng ăn với cháo trắng, hột vịt chiên tráng thật mỏng (hà tiện) và gỏi dưa leo bóp đường.
Ngày 18-5, dự tiệc nhà cựu bang trưởng Triều Châu, Lưu Liễu tự Bang Tư, thịt dê nấu tám món do Châu Xi, chủ quán cơm danh tiếng đứng nấu.
Ngày 2-6-1945, trong đống công văn nhận được, có bức thư số 1985-P đề ngày 28-5-45 do ông Minoda ký, (và do tôi ký nhận tuân lịnh ngày 4-6-45 số 1433 CP) thì thống đốc Minoda ra lịnh thuyên chuyển ông Nguyễn Văn Trác tự Paul Larrive chức rédacteur de lère classe des Services administratifs (tôi dịch tham tá biên tập đệ nhứt hạng ngạch hành chánh) xuống thay thế tôi và dạy tôi phải nghỉ việc lập tức, vì cuộc thanh niên bầu cử tôi là không hợp pháp.
Khi tiếp công văn nầy, ông Đảnh tỏ vẻ buồn nhiều hơn tôi. Đến đêm tôi thản nhiên đi xem hát, gánh Long Xuyên xuống hát thâu tiền cứu giúp đồng bào ngoài Bắc Kỳ. Tôi ngồi gần ông Đảnh và gặp lại sau lâu năm xa cách bạn học cũ là Hồ Văn Ngà, nhưng tôi không nói chuyện nhiều e có người nghi tôi cầu cạnh, vì lúc ấy Ngà giữ chức phó khâm sai miền Nam. Dè đâu buổi gặp ấy cũng là ngày vĩnh quyết, Ngà bị hại cách mấy tháng sau.
Ngày 4-6-1945, tôi vô toà bố giã từ anh em, bắt tay biệt nhau.
Ông Đảnh nói mấy lời cảm ơn tôi đã tận tâm giúp ông mấy tháng nay. Luôn dịp tôi xin một bản sao thơ cho nghỉ việc.
Ngày 5-6, tưởng đà hết nợ, dè đâu ông Đảnh và ông Hồ Văn Xuân đi Long Phú, xe đi ngang qua nhà, hai người ép tôi cùng đi và trên xe, ông Đảnh tỏ ý tiếc thay mình ra đi, ông vô toà bố dường như thiếu một người. Ông nói một câu tiếng Pháp: “Je sen ùn vi de autour de moi” (Tôi có cảm tưởng thấy một khoảng trống chung quanh bao vây tôi). Ông than: “Anh đi rồi, bá ban vạn sự đều trút dồn về một tay tôi, nên ngã lòng quá”. Đoạn ông tâm sự: “Đánh trống động chuông, bứt mây động rừng”. Tôi với Nghĩa là bạn thâm giao, tôi lại mang tiếng nhờ Nghĩa “cử lên ngai vàng nầy”. Nay dẫu có vì tại Nghĩa mà hư hỏng việc trị an, tôi mang danh bất tài, thì cũng đành liều cho mang tiếng luôn. Chừng ấy có lẽ tôi sẽ đặng an ủi: “Ôi! Nên cũng Hà mà hư cũng Hà”.
Ngày 7-6-1945, có gánh Việt Nam kịch đoàn xuống diễn tại Sốc Trăng của chánh phủ trong đoàn có cô Năm Phỉ, người tôi mơ ước và đã nói nhiều trong “Năm chục năm mê hát” (trang 99). Gặp nhau, nghẹn lời vì tôi đã có bạn, và cô danh tiếng lẫy lừng, một đoá hoa, đang thời xuân sắc, ong bay bướm liệng chung quanh dập dìu.
Cùng đi với Việt Nam kịch đoàn, có ban chớp bóng của Sở Thông tin Sài Gòn xuống tuyên truyền. Ăn cơm tại Câu lạc bộ gọi Cercle de Sốc Trăng, do chủ tỉnh đãi Cô Năm và mười người tai mắt trong xứ của ông Cò-mí dẫn đoàn chớp bóng. Tuy đã nghỉ việc, nhưng người đẹp mời ngồi gần và không xiết gọi mình ông Phó nầy, ông phó kia, nghe nhột nhạt mà không dám mở lời cải chính. Tiệc xong, đi xem diễn tuồng “Vì đâu nên nỗi”. Ghế mời R.5 và R.6 (R, là réservé: ghế dành riêng), khi chưa làm tuồng, Cô Năm còn xuống ngồi gần hàn thuyên tâm sự, cô hẹn chấn chắn sẽ đến nhà ăn “ăn cơm một bữa, như buổi còn ăn chén hột gà chưng trên Chợ Lớn”, báo hại mình mãi ấp cây chờ thỏ, sau rõ lại Cô chọn đi dùng bữa tại nhà ông Hội đồng Quản hạt Nguyễn Văn Nhung bên Bãi Xàu và đi khiêu vũ trên đồn điền Robert Labsthe ở Hélène-ville (phụng Hiệp), hai nơi nầy cố nhiên sang trọng hơn nhà lên thơ ký tiếm vị Phó tỉnh trưởng, để gái bao ăn hột gà chưng năm xưa.
Ngày 22-6. Ông Phủ Hồ Văn Xuân được lịnh đổi đi làm chủ quận Long Mỹ (Rạch Giá). Tiệc tiễn biệt có đánh thín cẩu.
Ngày 27-6 hội quán Quảng Đông mời dự tiệc đãi sĩ quan hiến binh Nhựt. Đánh tửu rất vui, rượu bia rót đầy ly uống không bao giờ cạn. Say và làm mất một kỷ vật quí, đó là ống điếu hút thuốc vấn bằng bích ngọc rất cổ.
Ngày 27-6, dự tiệc ông Đảnh gả con, rể là một tham tá lục sự ở Vĩnh Long. Nhóm họ và chơi thín cẩu tại dinh chủ tỉnh! Tiệc cảm động vì ông Đảnh trao hết tiền hồ và sính vật cho con và rể trước mặt họ hàng và sui gia. Thực đơn viết toàn Việt ngữ, như vầy:
Hôtel Inspection- Sốc Trăng ngày 27-1945 (23 tháng 5 năm Ất Dậu) (nhóm họ)
Long đình ngư bì  (canh da cá bóng)
Phụng thể kim hoa  (Gà lôi đúc lò)
Mạch tửu chữ dương  Dê tơ nấu rượu.
Đại hồng bưu thạch (Heo con đúc lò)
Liệt thiêu tiền ngư  (Cá bống chiên)
Thập trận đại hội  (cù-lao lửa)
Ngọc chủng Lam-điền  (Cơm, cá, thịt kho)
Quả bỉnh song hiệp  (trái cây, bánh ngọt)
Hương băng thanh vị  (bom lách-xê)
Võ Văn Đảnh và nội nhân đốn thỉnh.
Ngày 7-7, dự lễ tứ tuần chị Emilie Pennen là vợ trước ông Nguyễn An Ninh.
Ngày 14-7, máy bay Mỹ bắn chiếc xe hơi chạy trên đường Văn Cơ - Đại Ngãi. Lúc bắn vào lối 12 giờ khuya. Chết ba người: hai người theo xe đi rước thầy, và ông đông y sĩ Thầy Tàu, mọi lần rước bằng xe lôi không sao, hôm nay sanh sứa đòi ngự xe ôtô, và vì đèn pha rọi sáng, nên máy bay Mỹ bắn theo chết tốt. Rạng ngày lên nhà xác nhìn kẻ lòi mắt, người văng óc, máu me đỏ lòng, ghê quá. Chiến tranh diễn ngoài Đông Dương đã trở nên khốc liệt và tỉnh nhỏ Sốc Trăng vẫn còn mê ngủ như các tỉnh nhỏ khác. Người Nhựt bắt đầu bại trận mà còn giấu.
Ngày 4-8, một ngày mà được mời dự ba bữa tiệc, cậu Ba Etienne mời đám giỗ cúng cha; ông Nghĩa đãi thân bằng lương hữu (đã nói nơi đoạn trước), và ông mời đãi thiếu uý Nhựt Watanabé.
Nhơn tiệc nầy, mình say, đòi ông Watanabé cho xem gươm báu, nghe mình xin như vậy, ông Watanabé tái mặt, trâm một hơi tiếng Nhựt với Sệp Hên là thông dịch rằng gươm rút ra khỏi vỏ phải có vấy máu mới trở vào vỏ được. Đến phiên mình xanh mặt hết say và xin rút lời nói vụng về. Ông Watanabé nhứt quyết không nghe, nắm tay mình và dắt Sếp Hên ra sân sau Câu lạc bộ, chỗ có trồng bụi chuối. Mình tưởng giờ tử hình đã đến, ông tuốt gươm sáng quắc mời mình xem lưỡi gươm hồn bất phụ thực, mình nào dám nhìn. Bỗng nghe một tiếng “phụp” một cây chuối to lớn ngã cái “rột”, ông Watanabé cười mà rằng: “Chuối thế mạng người”. Watanabé đưa tôi trở lại tiệc hồn tôi lâu lắm mới nhập, và từ ấy tôi không dám hở hang lời nói nữa. Mãn tiệc vội nghe tin ông Nghĩa, đứt gân máu lại là một bài học khác cùng một ngày cho kẻ dẫu ham rượu cách mấy cũng phải chừa. Nhưng trên đời có mấy thằng ham rượu, thề thốt đinh ninh rồi biết giữ lời?
Đêm nay, tiệc tan, thiếu uý Watanabé lui về, còn lai hai bợm rượu Nhựt, một đội trưởng và một tài xế, kẹp cổ tôi bảo dắt lên nhà Ba Chỉ, lựa ba cô đưa nhau trở lại Lữ quán băng-ga-lô chọn ba phòng.
Sáng ngày, ông Đảnh hay, dạy tìm ra cho ra khoản trả tiền: ba cô ba chục là chín chục, tiền phòng mười tám đồng (sáu đồng nhân cho ba), vị chi một trăm lẻ tám đồng cả thảy. Mấy đời có ai đánh bài công khai dinh tỉnh trưởng và được xuất công nho bao tiền trả gái.
Ngày 10-8- Từ đây, sự việc diễn biến đột ngột và quá mau, không theo và không hiểu kịp. Mới ngày 4-8 còn yến ẩm cười nói vô tư lự, hôm nay 10-8 lối mười giờ khuya, có tiếng gõ cửa gấp.
Ông Watanabé cùng đi với Sệp Hên, mặt buồn lắm, đến từ giã, rằng có việc đi xa và xin gởi tôi một báu vật. Tôi tỏ vẻ ưng thuận. Watanabé bèn gỡ cây gươm đeo bên mình, trân trọng hai tay đưa tôi, và rằng: “Cho xin gởi và khéo giữ gìn. Như hai năm nữa không trở lại thì xin tặng luôn làm vật kỷ niệm, bảo kiếm nầy đã lưu truyền đến tôi là ba đời”. Than ôi. Trong bước truân chuyên lao đao lận đận, tôi mỏi mắt chờ trông mà cố nhân Watanabé nào thấy dạng hình, duy bảo kiếm vẫn còn treo mãi trên vách. Thân tôi trói gà không chặt, mang tiếng là học giả mà câu văn viết chưa gọn, thêm tuổi già lẩn thẩn theo sau, ông giao cho tôi làm chi binh khí chỉ báu trong tay nhà tướng, nội chuyện ông chém chuối, nhớ lai tôi đủ lạnh mình (Té ra ngày 10-8 đã có tin hai trái bom nguyên tứ Mỹ thả xuống Hiroshima rồi và Nhựt sắp đầu hàng mà ông Watanabé rất kín miệng, còn giữ bí mật với tôi. Và ông gởi gươm mà không nói).
Ngày 10-8, tôi đến thăm ông đốc Nghĩa.
Ngày 13-8, Thanh niên tiền phong thành lập tại Sốc Trăng và làm lễ ra mắt (14-8). Ông chủ tỉnh cậy tôi đại diện, giới thiệu thủ lãnh Dương Văn Đen với công chúng. Tạ Bá Tòng diễn thuyết về mục đích của Thanh niên tiền phong.
Ngày 12-8, tin Nhựt đầu hàng Đồng Minh đồn rùm. Bọn chợ đen nhạy hơi, bán đổ bán tháo vật tích trữ lâu nay, vì biết rằng chiến tranh sắp dứt.
Có tin đáng mừng là Đồng Minh sẽ tuyên bố độc lập cho tất cả các nước bấy lâu bị bắt làm thuộc địa của các nước Tây phương giàu mạnh. Duy tình trạng Nam phần Việt Nam rồi sẽ ra sao?
Vấn đề nầy rất lâu không dứt khoát. Trong buổi nhóm tại Long Xuyên, trước mặt thân hào nhân sĩ và ông phủ Nguyễn Văn Tiếp làm chủ tỉnh tạm thời, ngày 30-3-1945, ông Satoh là Phó Thống đốc thay mặt ông Minoda thống đốc và có quyền hành rất lớn, đã nhạy miệng thổ lộ như sau:
Nguyên văn bằng chữ Pháp:
“II y a un gros malentendu au sujet de l indépendance de l Indochine. Celle-ci toute entière ;st sous le contrôle “militaire du Japon. L indépendance de Empire d Annam et du royaume du Cambodge a été proclamée. La Cochinchine, non seulement se trouve sous” le contrôle militaire nais encore sous l administration militaire japonaise. Donc, pas l indépendance de la Cochinchine.
“Juridiquement, la Cochinchine était un pays franais! Juridiquement” vous étiez Franais. Vous étuez tous, sujets rancais, c est-à-dire des” Franais. Il y aurait bientôt une procla-nation du Commandant en chef de” l Armée japonaise. Vous allé? conquérir probablement la nationalité annamite. Au point de vue sentimental, je comprends que vous sentez annamites. Les habiants pourront donc pavoiser leurs maisons aux couleurs annamites. Pour les bâtiments publics, n arborez pas le drapeau annamite, on pourrait dire que c est l Empire d Annam qui gouverne la Cochinchine. Je ne sais pas quand cela arrivera. Personnellement, j en serais heureux, mais maintenant vous êtes sous l Administration militaire japonaise.
“M. le Vice-Gouverneur insiste : “L Empire d Annam abrogé le traité de protectorat avec la France. L Empire d Annam était un pays protégé, et la Cochinchine était une terre franaise, maintenant, elle est sous le contrôle militaire japonais, (extrait du compte-rendu du passage de Monsieur le Vice-Gouverneur Satoh à Long Xuyen le 30 Mars 1945).
Tôi xin tạm dịch:
“Hiện có một hiểu lầm rất lớn về chế độ độc lập của Đông Dương. Cho hay toàn cõi vẫn ở dưới quyền điều khiển của nhà binh Nhựt. Sự độc lập của đế quốc An Nam và của vương quốc Cao Miên đã được tuyên bô. Nhưng cõi Nam Kỳ vẫn dưới quyền kiểm soát và dưới quyền cai trị của nền hành chính quân đội Nhựt. Và như thế đâu có độc lập cho xứ Nam Kỳ.
Đối với mặt luật, thì Nam Kỳ trước đây là một lãnh thổ thuộc Pháp. Đối với mặt luật, mấy ông đây đều là Pháp. Các ông đều là thần dân của Pháp tức người Pháp đó chi! Sắp có bản tuyên bố của quan tổng tư lịnh tổng quân đội Nhựt. Các ông sẽ thâu hồi đại khái quốc tịch An Nam. Luận về tình cảm, tôi hiểu được ông muôn được làm dân An Nam. Như vậy dân sự vẫn được treo quốc kỳ An Nam. Nhưng dinh thự công cộng không nên treo cờ An Nam, không khéo có người sẽ nói đế quốc An Nam ngự trị trên đất Nam Kỳ. Tôi chưa biêt việc ấy chừng nào sẽ đến. Riêng tôi, nếu chuyện nầy xảy đến, tôi sẽ rất vui mừng. Nhưng hiện nay các ông vẫn được đạt dưới quyền cai trị của nhà binh Nhựt”.
Phó Thống đốc Satoh lại tiếp:
“Đế quốc An Nam đã thủ tiêu tờ điều ước đô hộ của Pháp quôc. Đế quốc An Nam trước đây là một nước bị đô hộ, còn Nam Kỳ trước đây vẫn là một lãnh thổ Pháp, nay bị đặt dưới quyền kiểm soát của quân đội Nhựt...” (trích bản phúc trình cuộc tuần du tai Iong Xuyên của Phó Thống đốc Satoh ngày 30/3-1945 hiện cất giữ tại nhà).
Than ôi! Một cục mỡ béo treo trước miệng mèo, một miếng thịt bít-tết ngon lành treo trước mõm chó, đất Nam Kỳ là một thiên đàng dưới dương gian, thảo nào người ta không thèm thuồng, hễ vớ được rồi là quyết ngoặc lại cho chắc, bao giờ chịu nhả ra! Lại còn giả đạo đức, lấy luật nầy luật kia ra nói! Cho nên sau nầy dẫu thua sát nước mà họ vẫn kiên trì không chịu trả Nam Kỳ lại cho ta, và khi cùng phương đối đế, không giữ được nữa họ mới đành buông bằng cách chôn súng rồi chỉ chỗ cho lấy, vân vân...
Ngày 19-8, có cuộc biểu tình mừng độc lập và hoan nghinh ông Nguyễn Văn Sâm được vua Bảo Đại phong làm khâm sai Nam Bộ, Hồ Văn Ngà làm phó khâm sai.
Ngày 20-8, Thanh niên tiền phong biểu tình.
Ngày 25-8, Nội các Trần Trọng Kim đổ, Nguyễn Văn Sâm từ chức theo, Hồ Văn Ngà nhượng bộ. Có tin Bảo Đại thoái vị. Thiệt là quá mau và tỉnh nhỏ Sốc Trăng nào hiểu biết gì. Toàn thể công chức chỉ biết vâng vâng dạ dạ, sai gì làm nấy.
Ngày 26-8, lễ tuyên thệ của Thanh niên tiền phong trên sân vận động Chung Đôn.
Ngày 27-8, đúng ngày mình vô làm nơi Trường Máy, nay đã được 22 năm kể từ 27-8-1923. Ông Đảnh mời vô toà bố nhờ viết bài xin trả chức.
Ngày 29-8, nửa đêm nghe tiếng còi báo động, sáng hay tin ông Đảnh chủ tịch, ông Sang bác sĩ, ông Quế chủ sự Dây Thép và ông Sính trưởng toà bị thanh niên bắt rồi thả. Ngồi nhà, tâm trí ngổn ngang, nghĩ lại thương ông Đảnh tốt với mình quá, biết bao giờ gặp một người tri kỷ như vầy. Đọc lại bút tích ông viết mấy tháng trước: “Tất cả những vấn đề nào anh làm đặng, trả lời được thì nhờ anh cứ trả lời và giải quyết thế tôi. Người nào, quan khách nào tôi không rước thì anh cứ rước và trả lời “en l air” (sic) cho xuôi việc và gởi đi lịch sự thôi”. (Võ cố nhân ôi, ngày nay tôi đọc mà còn ưa nước mắt).
Về tình nghĩa thầy trò, lúc tôi còn làm, tôi có nhận của một ân sư một giấy xin lãnh coi sóc lữ xá băng-ga-lô, một ân sư khác can thiệp cho bồi cũ ông chánh B, xin một chân lính cảnh sát. Hai việc đều ngoài phạm vi của tôi vả lại trái với lương tâm. Hai thầy nay đã năm yên dưới ba tấc đất, xin tha thứ cho con? Không phải con quên ơn hai thầy, nhưng xin thầy hiểu việc công đâu làm như việc tư được?
Ngày 2-9, Việt Minh biểu tình lần thứ nhất, tại Sốc Trăng vào mười bốn giờ chiều. Lưu Trọng Quyền dẫn theo một tù xa đề: “Bắt cóc bọn thân thiện với Pháp”. Sai may cờ mới treo trước cửa và dự biểu tình cho đến mãn cuộc.
Ngày 5-9, thanh tra miền Tây của Lâm uỷ hành chánh là ông Nguyễn Văn Tây, cùng đi với Chung Bá Khánh, trước học Chasseloup, đại diện Phật giáo Hoà Hảo, xuống Sốc Trăng diễn thuyết nhìn nhận ông Đảnh coi về cai trị. Thành lập Uỷ ban địa hạt gồm Dương Kỳ Hiệp (em cột chèo ông Nghĩa) làm chủ tịch, Tạ Bá Tòng làm phó chủ tịch. Cố vấn: ông Trương Đại Lượng đại diện Hoà Hảo và Sơn Thái Nguyên đại diện người Việt gốc Miên.
Ngày 7-9, Cần Thơ có lộn xộn, Hoà Hảo giành quyền cai trị. Thanh niên Sốc Trăng và Bạc Liêu kéo lên hiệp với thanh niên Cần Thơ mới dàn xếp xong.
Ngày 9-9, tiễn ông Lý Bình Huê toà Sốc Trăng, lên làm cố vấn Bộ Tư Pháp. Thanh niên bắt mấy người theo Hoà Hảo: Trương Đại Lượng, Lý Công Quận, Nguyễn Hữu Trinh (ngoài gọi Xã Mười Trinh) nghiệp chủ lớn, con bà Cả Tru.
Kể từ ông Đảnh có Uỷ ban hành chánh lâm thời giúp việc cai trị, mình trở nên “hưu thiệt thọ” và lãnh phận sự thay mặt Uỷ ban tiễn đưa chiến sĩ từ trần:
- Ngày 21-11-1945, điếu Phan Thành Mỹ chết trận Cái Tắc, người thứ nhất nằm nghĩa địa mới lập trước trại lính tập cũ nay không biết còn chăng?
- Ngày 22-11-1945, đọc ai điếu nhơn lễ truy điệu trận vong tướng sĩ;
- Ngày 23-11-1945 ứng khẩu khóc tại mộ anh Nguyễn Văn Chức, 37 tuổi, thợ hồ;
- Ngày 1-12-1945, khóc tiễn trước mộ chung “chiến sĩ trận vong”, anh Lâm Văn Hai tự Lén, 25 tuổi, đánh xe ngựa con ông Lâm Văn Xện, có nhà và chuồng ngựa trước trại ruộng của mình trên mé kinh và mé lộ dưới đường đi Bãi Xàu. Anh Lén chết mất xác ở Cần Thơ trong trận đánh du kích chống quân Pháp. Tôi khóc anh Lén thật tình và người chung quanh cũng khóc với tôi. Đời còn lắm phong ba, chết là yên, sống thừa thêm khổ.
Ngày 15-12-1945, đọc ai điếu nhơn lễ truy điệu chiến sĩ trận vong lần nữa.
***
Tuy khóc thật tình, nhưng nước mắt vẫn còn, và biết bao giờ cạn. Và đời vẫn còn thừa chuyện tếu, bắt buộc phải lau nước mắt để cười, mới sống được đến hôm nay.
Năm 1945, tôi không giữ nhật ký vì lịch bỏ túi không đâu có bán thêm nữa có lệnh cấm ngặt không cho ghi chép vì e lọt tay địch thù? Đêm 24-9, lối 2 giờ khuya, tôi được mời vô khám đến 27-9 lối 10 giờ sáng thì thả. Nhưng nhớ lại lúc đó trời bắt đầu có gió lạnh và sắp dứt mua. Có hai mươi ngoài người như tôi, trong ấy còn nhớ có Phán Kiểng, hội đồng Nhung, bác sĩ Sang, nhất là ông trưởng toà Sính, vì quá lật đật quên đem hàm răng rời theo, sáng ngày anh em ngồi chò hỏ ngó mặt nhau buồn nghiến vì sợ ở luôn đây với tết thì xui xẻo lắm. Có Phán Lợi ăn cưới về còn mặc nguyên com-lê nỉ đen, thảy đều do Chủ tịch mới hội nghị gấp mười một mười hai giờ khuya, bác sĩ S. tay còn xách túi da đựng thuốc vì chiều bữa đó ông được mời đi đón anh em ở Côn Đảo về, tội nghiệp nhất là ông trưởng toà S, quên đem theo hàm răng giả, nên sáng ra ở nhà đem cơm vô chúng tôi được hưởng trọn những gì ngon giòn còn ông chỉ trệu trạo và nuốt cơm lạt, ở được vài hôm cũng vừa quen quen với nhà pha Sốc Trăng nầy, bỗng chiều bữa nọ, cơm nước vừa xong, bác sĩ vốn là bạn thân từ lúc nhỏ, nay thêm thân vì đồng cảnh ngộ làm tù, hai đứa tôi đang cùng đi bách bộ trong khám cho đỡ tù túng chân giò. Thoạt nghe từ một trại giam bít bùng, có tiếng ai lên dây đờn cò réo rắt. Bác sĩ lấy mắt hỏi tôi, tôi cười và nói nhỏ rằng: “Thời buổi loạn ly, nếu họ cho phép đem đờn vào khám thì e chúng mình còn ở đây lâu, vì trật tự không còn và một khi trật tự đã mất, thì người ta ở ngoài sẽ quên mình và đôi ta sẽ khó trông cậy vào công bằng soi xét”. Nhưng rồi cũng quên đi... Ngờ đâu qua hôm sau, chiều đến vào đúng giờ ấy, lại nghe giọng đờn nữa, và phen nầy càng nhức nhối não nùng hơn đêm trước nhiều:
“Nghe não nuột mấy dây buôn bực,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu” (Tỳ bà).
Không thể chịu được nữa, bác sĩ và tôi phăng lần theo hướng có tiếng đàn. Qua khỏi sân nhà xay lúa và giã gạo thì đến khám giam tội tử hình, quen gọi khám tối. Trong một khuôn cửa sầu thảm âm u, bỗng vọng ra tiếng đàn rõ rệt. Buổi ấy lính tráng cũng thật tình dễ dãi. Vả chăng hai tôi vẫn là bực đàn anh trong xứ, một người là bác sĩ chủ sở y tế địa phương có tiếng là hiền từ nhơn đức còn tôi dầu sao đi nữa mới mấy ngày trước còn ràng ràng vẫn được thanh niên yêu vì bầu cử lên làm phó tỉnh trưởng một thời gian, có quyền ký sổ mua gạo mua thực phẩm nuôi tù, vì các lẽ ấy nên xếp khám là ông Quản Lý (tên Lý) vẫn tha hồ để chúng tôi đi đi lại lại trong khám không một lời khiển trách. Nhờ vậy chúng tôi bước trờ tới cửa sổ nơi phát ra tiếng đờn. Chúng tôi định thần nhìn kỹ giây lâu, thấy lần lần hiện ra một bóng người trần truồng ngồi đưa lưng ra cửa, chân còng trong một cây cùm sắt to bằng cườm tay người lớn. Lúc ấy tiếng đàn đã bặt từ nãy giờ. Tôi lên tiếng hỏi và không quên búng mạnh vào một điếu Bách-tô đốt sẵn ngay chỗ có tiếng người. Bỗng thấy lẹ như chớp, người ấy tay chụp điếu thuốc, hít một hơi dài gần như nuốt mất cả khói, tay kia vội vội kéo manh đệm che phân nửa khúc thân dưới quá loã lồ, một cử chỉ tuyệt nhã đối với một tử tù bắt tôi băn khoăn nhớ cảnh “đàn che nửa mặt bến Tầm Dương” và nước mắt tôi bỗng rơi vì xúc cảm. Đoạn người ấy lễ phép thưa: “Dạ, không phải tôi đàn, ấy tôi hút gió bằng miệng mà thôi”. Nhơn chúng tôi hỏi vì tôi chi mà thân bị nhốt khám đại hình, bỗng người ấy đáp: “Trước kia làm nghề đi bạn ghe chài, chẳng may chủ chở đạn dược súng lậu Nhật chận bắt, chủ thuyền, lái và thuỷ thủ có dư tiền lo lót nên đều thoát khỏi vòng lao lý, duy thân nầy nghèo khổ trơ trọi, còn sót lại nằm đây, không biết ngày mai ra sao!”.
Người ấy nói tiếp nếu có được trong tay một chót đuôi lá trầu hay một cạnh lá gì cũng mặc, sẽ lấy đó làm “lưỡi gà” và tiếng kêu càng giòn càng giống hệt tiếng đàn cò hay tiếng kèn hơn nữa, và khi ấy muốn thổi bản nào, giọng nào, dây hơi nào, đều dám chắc không thua đàn thiệt. Chúng tôi cũng ngồi tù như anh, trong tay không có lá nào, vậy xin cho nghe một buổi đàn miệng suông cũng đủ là thoả nguyện. Nghe làm vậy, người ấy bèn giụm hai tay trước mồm, thọc hai ngón trỏ vào họng, rồi vừa thổi ra vừa hít hơi vào quả thật chúng tôi đứng nghe khoái trá đến quên cả cảnh tù đày và chỉ nhớ và thèm thuồng đây là một nghệ thuật độc đáo, có một không hai.
Cũng trong đêm ấy, cửa ngục thoạt mở cho chúng tôi ra khỏi khám đường Sốc Trăng, nhớ lại chúng tôi đà trải qua bốn ngày bôn đêm trong nầy. Kế liên tiếp và dồn dập sự biến chuyển của thời cuộc năm Ất Dậu, Bính Tuất (1945 - 1946) tới mãi không ngừng, chúng tôi khiếp nhược chỉ biết lo cho thân, khiến cho đến nay, tin tức âm hao người nghệ sĩ xấu số kia cũng bặt, sống chết không hay.
Đã mấy lần về thăm nhà, có người chỉ biết nghệ sĩ ấy quê ở Đại Ngãi, mà tông tích thế nào không ai biết.
***
Trong những buổi tiếp xúc với người Nhựt, bất cứ với quân đội hiến binh hay sĩ quan, tôi luôn luôn giữ thái độ mềm mỏng nhưng bất khuất, không bao giờ bợ đỡ, biết thì nói, không biết thì thưa không biết. Chủ trương của tôi là giữ lợi khí duy nhứt của kẻ yếu là ăn ngay nói thật. Tôi hiểu rằng đối với người có binh khí cầm tay, nhứt là đối với người Nhựt mộc mạc, nóng tính, ghét dối trá một khi bắt được nói dối thì chăng bao giờ nghe nữa. Như vậy là mình tìm cái chết. Trái lại dịu ngọt và nhỏ nhẹ, giữ đúng tiếng nói của lương tâm, thì hoạ may đổi con sư tử ra con trừu. Vả lại trong thời kỳ chiến tranh, mạng người rẻ hơn bèo. Bao giờ mình là người thụ động, bị ở trong cảnh đánh giặc, chớ lòng nào gây chiến với ai? Từ khi tôi thôi làm, có vấn đề nào éo le, cần nói chuyện với cơ quan Nhựt tại tỉnh, ông Đảnh thường cậy tôi dàn xếp và ông thường viết câu: “Anh rán hát cho hay...”. Mỗi khi có tiệc tùng, người Nhựt thường buộc tôi có mặt. Những khi như vậy, lòng nào muốn mà cũng phải đi, cũng vì tánh nhát sợ có sự hiểu lầm. Khi tôi thôi việc, họ thường nhắc nhở. Trong thơ viết từ giã yêu cầu cho thôi để hưởng hưu bổng, có câu nầy nay đọc lại thấy xấc: “Tôi không xin xỏ cũng không van nài, cũng không tìm cách từ chối bằng lối si-mê hay xu mị, kiêu ngầm hay chọc tức. Ngày nào quý vị biết rõ tôi là “đại chi vô dụng” (như cây cỏ dại mọc xó hè) và dể tôi yên thân, ngày ấy tôi mới thật mừng”. Câu nầy không phải của tôi và tôi lấy ý của Chateaubriand, nhưng không đủ tài dịch rõ hơn: “Je ne demande rien, je ne sollicite rien, je ne veux mettre ni passion, ni orgueil, ai taquinerỉe à refuser, mai aussi je sentirai une vraie joie, le Jour cù il ser arrêté que je ne sui bon à rien ét qưil faut me planter là”.
Khi bị ép ra làm, tôi có nghĩ hai câu đến nay chưa bằng bụng vì tôi không có khiếu về thơ tuy có tánh song tàng, ưa mượn của kẻ khác, hoặc làm thơ con cóc:

Lầu xanh dời lạt lầu hồng,
miệng ngoài nói cứng mà lòng đã ưng.
Lầu xanh xé giấy khoan mừng,
Giấy kia dầu xé cũng từng lầu xanh!

 


20 (tt )
20. 1945-1946-1947


TỪ ĐÂY GIA ĐÌNH BẮT ĐẦU TAN!
THÂN NHƯ CON VỊT QUAY TÍT!
Ý ĐỊNH KHÔNG MUỐN SỐNG!

- 18-12-1945( 16/2-1946: tản cư vô Hoà Tú;
- 25-10-1946 ( 15-11-1946: tản cư lên Kế Sách;
- 7-7-1947 ( rời Sốc Trăng chạy tuốt lên Sài Gòn.
Vô khám Sốc Trăng nếm mùi cơm gạo lức nước phong-tên vì tôi nhứt định gặp cảnh nào theo cảnh nấy, nên không cho người nhà đem cơm vô. Tôi thản nhiên cười nói như ở ngoài đời, anh em đều lấy làm lạ, hoặc cho tôi lập dị. Trưởng toà Sính là người nhiều phong kiến, một hai đòi xin giam chỗ khác, không ở chung với thường phạm; tôi không đồng ý, cho rằng “tố nào theo tố nấy” như vậy mà yên thân hơn, tách ra riêng chăng may bị bỏ rơi đói khát, hoặc họ phóng hoả chết cháy cũng chưa biết được, đã oan mạng, thêm mang tiếng tự mình lựa cái chết. Ông Sính nghe được, mới chịu thôi, không kêu nài. Vả chăng kêu nài cũng không ai nghe.
Tưởng ở đây đến Tết, ngờ đâu 2 giờ khuya hôm 24-9 vô đây đến 10 giờ sáng 27-9-1945 cửa khám mở rộng cho về; đi bộ từ ngục về tới nhà, tay ôm chiếc chiếu lác đã xười, vì tật chơi đồ cổ không bỏ và dầu sao cũng là vật kỷ niệm bốn ngày Dũ-lý. Về nhà bế môn không tiếp khách, duy tiếp một người như ruột rà là em Kim Chi, đến thăm chúa nhật 30-9, là bạn thân của cả vợ và chồng.
Mua hai trăm ký gạo giá tám mươi bốn đồng (84$00), không như bây giờ 1975, một bao trăm ký trên 20.000$.
Ngày 11-10 cho đến ngày 21-10, tản cư xuống trại ruộng lộ nhỏ đường đi Bãi Xàu vì tuân lịnh Uỷ ban kháng chiến. Nhưng ở đây cũng không được yên, vì tuy khách không đến khuấy rầy, nhưng tối bữa 13-10 (đêm 8 qua 9 tháng 9 Ất Dậu) có quân tử ngồi rường đến viếng; không trộm của mình mà nhè áo quần tế nhuyễn của ông bà công táp Huỳnh Văn Đạo ôm sạch. anh em làm sao biện minh? 21-10, dọn trở về nhà cũ, 31 đường Đại Ngãi. Lúc nầy thành phố sôi sục, nạn cướp bóc trong các làng xa do giặc Thổ khuấy, tin Sài Gòn rất xấu chưa biết chừng nào bọn Tây xuống đây. Ở nhà cũng không yên, Tư thường đi vắng, qua nhà anh là Tường Khi canh bài, khi gặp Thân. Mối tình đầm thẩm khi nghèo, nay đã manh nha tan rã...
Ngàv 9-12 là ngày 10-12 (5 và 6 tháng 11 Ất Dậu) gặp lại bạn cũ hội Khuyến học Sài Gòn là anh Ngô Quang Huy, chạy xuống đây, chia nhau giấy quyến hút thuốc vì đều là bợm ghiền thuốc điếu. Huy cho hay vài tin tức Sài Gòn, rồi từ giã nói lên đường đi Cao Lãnh.
Ngày 16-12, em là Vương Minh Quang dọn đồ đạc, ghế tràng kỷ, tủ áo xuống ghe và đưa thân phụ chạy về tản cư bên quê vợ ở làng Thạnh Thới An, sau bị giặc Thổ đốt phá cướp sạch luôn độ nghề làm thợ bạc, bàn cán là vật kỷ liệm thân phụ trân trọng về sau tiếc mãi. Thổ tàn ác, lột sạch, thân phụ phải đóng khố bằng vải mùng rách mà bọn chúng còn muốn không buông tha tánh mạng. Mấy hôm sau, Quang qua Hoà Tú gặp mình, mình tạm gởi mớ áo quần đỡ ngặt và phụ thân bớt lạnh đêm đông.
Ngày 17-12-1945, thanh niên đến nhà treo đồ bổi lá khô trên trình thượng hai căn phố 31 và 33 của thân phụ, ép mình ký tên cho phép đốt nhà “tiêu thổ khi có giặc Tây đến. (Về sau nhà cháy, nhưng bên bang “Công sở Quảng Đông” ở sát vách qua cứu kịp, khỏi bị hoả tai. Lúc tản cư trở về, nhà còn y, duy nám sém cửa sổ)
Cùng trong ngày, mình về dọn đưa lư hương vừa nhang qua tạm để góc tre sau trại ruộng dường Bãi Xàu, tản cư về, bát nhang ông bà còn y nguyên, vô sự.
Ngày 18-12-1945, đến lượt mình dọn hết đồ đạc sách vở đồ đưa xuống ghe tản cư vô ở nhờ nhà Trần Đắc Lợi (Chủ Lý) làng Hoà Tú. Ngày 19-12, ghe vô tới nơi, dọn lên.
Ngày 26-12, dự xem thanh niên diễn tuồng ái quốc tại nhà Chủ Lỹ.
Ngày 27-12-1945, dùng tiệc cơm Tàu nhà Trần Kế Vĩnh do chú Chín Cảo đứng nấu. Cũng vì tánh ham cao lương mỹ vị, mà chạy bỏ xừ mấy phen, nhưng chưa thấy tởn. Ngày nay vùng nầy không còn một cục gạch di tích sự nghiệp xưa, chớ xóm bà Hương Chanh nầy, trước năm 1945 là một vùng sum mậu nhứt:
- Nhà Ba Chen là một villa khang trang đẹp đẽ, nhiều nhà vùng Sài Gòn Gia Định ngày nay cũng khó sánh về mỹ thuật; em gái Chen là cô Tư, làm bánh, nấu bếp khéo vô song.
- Nhà Chủ Lỹ, là một ngôi nhà cổ ba căn, lẫm lúa cội núi dăng dăng. Lỹ là tay hào kiệt coi tiền như đất, mấy năm tản cư, đồng bào chạy ngang đều được tiếp tế đầy đủ. Gạo lúa muốn xúc bao nhiêu anh không bao giờ nói, vì tánh anh là người tiền phong, anh nuôi ý tưởng xã hội chủ nghĩa và vẫn xem tiền là phù vân, là nước bọt. Nếu có khả trách là trách anh vốn đệ tử tiên nâu, hút đến phá sản. Khi anh nằm xuống, ruộng vườn ông hà để lại không còn (nên khỏi bị truất hữu) đuy còn một chút ruộng hương hoả thì vợ con cũng chưa lãnh, vì trục trặc giấy tờ.
- Không đẹp mà khoái lạc nhứt là cơ ngơi của Trần Kế Vĩnh, ngoài gọi cậu Hai Vĩnh. Nhà ở là một nhà lầu của ông bà để lại, tuy thấp xưa mà kiên cố: vách tường dày ba lớp gạch (vách ba mươi), bọc thêm bên trong một lớp hàng rào sắt ba phân tròn, không sợ giặc cướp buổi đó. Nhà cất nối dài, nhờ vậy sau tôi dọn về đây, lại có dịp bành trướng tủ sách sập vàng y như lúc ở chợ Sốc Trăng. Nhưng chỗ tôi thích nhứt là vườn rau của Hai Vĩnh và ao nuôi cá tôm. Mương đào nước chảy thì Vĩnh nuôi cá, đủ thứ đủ giống từ cá trê vàng lườm, và tôm, loại tôm càng thật lớn con, giờ nào buổi nào có khách tới muốn ăn thức gì đều có sẵn, từ tôm nhúng giấm đến tôm luộc, tôm nướng, qua cá nướng trụi hoặc xắt lát mỏng nhúng tái ăn “tạp-pín-lù” (gọi ăn cù lao). Nhà Vĩnh tư niên chứa đủ rượu Tây ngon, rượu khai vị Martel, rượu sâm banh, chỉ thiếu nước đá, vì thuở ấy khó sắm tủ fri-gi-đe chạy dầu hôi, kỳ dư tàu vị yểu, nước chấm maggi, nước mắm hòn không bao giờ thiếu. Vĩnh không tiếc tiền, dọn ruộng đắp đất làm được một sân túc cầu trồng cỏ còn khéo và đều đặn hơn sân đá banh vườn ông Thượng Sài Gòn. Nhưng tuyệt đẹp tuyệt mỹ và bất ngờ nhứt giữa cảnh đồng khô cỏ cháy nước mặn là vườn rau Hai Vĩnh bốn mùa có đủ ớt cay, củ sả, nghệ vàng, ngải bún, và các thứ rau ngoại quốc chỉ hạ thuỷ thổ với Đà Lạt như xa-lách xon (cresson), xa-lách Đà Lạt, luôn cả khoai Tây (pomme de terre) béo bùi không chút sượng. Vĩnh có đến ba đầu bếp chuyên môn nấu theo Tây Tàu và Ta. Như đã nói bởi ham ăn khoái khẩu mà xuýt chút nữa tôi đã chôn xác và bỏ cả gia tài nơi điền Bà Hương Chanh nầy.
Năm 1946 (Bính Tuất) tin dồn dập đến tôi tại Hoà Tú và đều là tin xấu, tin nguy:
- Ngày 5-1-1946, hay tin chợ phố Sốc Trăng bị đốt, binh Tây kéo đến, bên ta rút lui.
Ngày thứ bảy 6-1-1946, đến phiên chợ phố Bãi Xàu bị cháy.
Ngày 7-1-1946, đồn điền Phủ Thạnh (Hoà Tú) ngang điền bà Phủ An, tổ chức phiên canh phòng ngừa giặc Thổ cướp phá. Điền Phủ Thạnh (con cháu là Cao Triều Trực, Cao Triều Phát), cũng ở ngang điền Nguyễn Tấn Phát (có đào con kinh nay còn gọi kinh Xã Phát), không biết hai người giận nhau điều gì, duy bên nhà dòng Nguyễn Tấn, lúc trước thấy có tấm biển treo đề hai chữ “Chánh Thọ”, không ai biết muốn nói gì, sau có người nói nhỏ, đó là “Chó Thạnh”.
Ngày 9-1-1946, tin đến càng gần, ở Hoà Tú đứng chỗ trống thấy khói mịt mù đó là chợ phố Nhu Gia bị hoả thiêu.
Ngày thứ tư 10-1-1946, Thổ dựa hơi Tây đàn áp dân ta, cướp của giựt tài sản dân đem theo, lửa khói mù trời miệt ấp Hoà An. Chúng vô lương tâm, lùa giết đồng bào vô cớ, chúng nắm tay nhau giăng thành hàng, chân giậm đạp dưới sình bùn như đi bắt chim, bao nhiêu người trốn trong lứt đế ô-rô đều bị chúng tôi ra, không trốn khỏi người nào, và đều bị chúng lấy phảng phát cỏ kéo cán thêm dài, chúng chặt đứt đầu, và oang oang tuyên bố theo lịnh Pháp dạy: “An Nam độc lập còn lâu, Đàn Thổ làm giàu một bữa!”. Lối dã man ấy, chúng gọi trong lúc rượu trắng nốc say tuý luý là “cáp duồng”, do chữ “Vương” trong “An Nam quốc vương”, nói không đủ tiếng và gọi tất là “Duồng”. Ngó ra cánh đồng chỉ thấy thiên hồn địa ám, tiếng hò tiếng hét và lửa cháy lu bù... Trong bụng nao nao, ai ai đều toan chạy nhưng chả biết chạy đi đâu. Thân khổ?
Thứ sáu 12-1-1946, tin báo đến tai: Ba bị Thổ cướp sạch tại Thạnh Thới An, trọn đêm không ngủ và nước mất cứ tuôn rơi. Sáng ngày mượn Ba Kỷ là người vạm vỡ nhứt trong đám bộ hạ, tuôn bụi lướt sình đi lấy tin tức và tiếp tế cho Ba (phụ thân), chớ thân tám thước nuôi cho nên vế nên vai nầy cam tội bất hiếu vì trói gà không chặt, đi chân không trên ruộng nẻ mùa khô, một mình không vững, chạy không xong, tiếp cứu Ba làm sao được! Giặc Thổ đâu không thấy, chỉ thấy trâu nhốt trong chuồng bị muỗi chích nên khua sừng vào cổng chuồng, hai thằng dân chợ, cả hai đều cận thị, không dùng vào đâu được.
Ngày 17-1-1946, linh ứng khiến nên mượn Thanh niên, Nông dân cứu quốc dọn sách và đồ đạc cho vừa mắt, việc xong đền ơn rất hậu, nhờ đó gây cảm tình. Nửa đêm có một anh lay xách tầm vông vạt nhọn, đến báo tin định đốt nhà mình đang tá túc, vì nghi là Việt gian. Sáng ngày ra mắt Uỷ ban cách mạng, cất nghĩa thân mình không khác con cóc đến ở nhờ hang rắn độc, nay xin phép cho mình dời qua nhà khác...
Ngày 18-1-1946, dời hết sách và tủ giường qua nhà anh Chủ Lỹ, cho ở nhà sau trọn ba căn rộng nên được dịp bày binh bố trận y như nhà cũ ở chợ Sốc Trăng. Khi binh Tây kéo đến, lấy chỗ nầy làm trụ sở, cấm phá phách, nhưng đó là việc sau.
Đêm 18-19 tháng giêng Tây (mồng năm rạng mồng sáu tháng chạp Ất Dậu). Đêm nay là đêm kinh khủng nhứt trong cuộc tản cư nầy, vừa mười giờ khuya, tiệc liên hoan cháo vịt nửa chừng, bỗng thấy lửa đỏ trời, tiếng súng nổ chát chúa điếc tai, thì ra đó là tin Tây kéo binh dùng tàu từ Bạc Liêu đánh lên Hoà Tú. Cả mấy gia quyến lật đật hốt ba mớ đồ và chạy bộ lẩn quẩn sáng đêm trên đánh đồng từ ấp Hoà Quái qua Rọc Tre, tới ấp Hoà An, chung quy một đêm tới sáng coi lại chạy không hơn ba cây số, mà kẻ mất quần, người rách áo, duy Chủ Lỹ, tay dắt mẹ, tay thủ siêu đao, ai nấy đem của quý hộ thân. Anh Chủ Lỹ chỉ lựa một lồng cu và đem theo một con gáy hay nhứt và một bó lúa vừa chín, ấy quan niệm của một người tôi cho là tiền phong là vậy! Cũng đêm nầy, người ở lại không chạy, lục soát phòng tôi, đốt giấy tờ tài liệu, thất vọng vì kiếm không thấy tiền bạc tức giận bèn rọc bìa sách may làm túi ba nha, vứt sách ra đầy ruộng, may sao cậu Năm Tuấn em Ba Chen lượm lại phơi khô sau trả đủ, thật là ơn trọng.
Ngày 20-1-1946 đến 25-1-194ó, ngồi trong ghe lớn chèo khắp vùng Lá Banh (Thổ gọi là Chắc Đối, một tên tiền định chờ phóng hoả, do chữ “Mà chắc mà đott”, tiếng Miên nghĩa là “vừa xỏ” (mà chắc), “vừa ghim” (mà đoạt), vì cá ở dưới sông nhiều cho đến bắt xỏ xâu không kịp. Đó là làng Gia Hoà thuộc hạt Sốc Trăng giáp giới tỉnh Bạc Liêu. Chạy tản cư là chạy chết, quanh đi quẩn lại chỉ dời chỗ nầy qua chỗ khác gần đó, trêu tức người bất lương chờ dịp làm hỗn, lấy của hại mạng, hễ thấy ghe Diệp Quang Dõng dời đi, thì chống ghe lại thế chỗ, và ghe Dõng lại lấy chỗ cũ của mình, vần quay xay lúa, đâu chẳng tới đâu, chán quá!
Vì kinh nghiệm năm Bính Tuất (1946), nên qua năm Mậu Thân (1968), năm Nhâm Tý (1972), năm Ất Mão (1975), nhứt định không chạy nữa, và ở một chỗ, thà chết được chết tại nhà, như vậy mà tìm được lẽ sồng, may thay! Một lẽ khác là thiên đạo chí công, tránh bịnh tránh vi trùng, không bao giờ tránh được bão tố lụt ngập, đó đều là tai trời ách nước, người ta ra sao thì mình như vậy, ở cho vững lương tâm là thượng sách. Lại nữa: “Ở đời, khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”, cũng đừng thiên mưu bách kế, khoe tài khoe giỏi hơn ai, khôn một đời chỉ dại một phút. Bình sanh vơ vét, phè phỡn mà, muốn trường cửu sao được? Rõ là thiên sanh hữu mạng, nếu bất thân thì ráng bắt chước sen bèo, mọc trong bùn mà chẳng hôi tanh, giữ vững phận bèo phận sen quản bao giọt nước hoạ may có lối thoát.
Ngày 27-1, chạy đã quá mệt, chèo chống rã tay, đua nhau đổ về nhà thờ Cha Lý, một chân tu đã trên tám mươi tuổi, ở Lá Banh, nơi nầy Thổ không dám động, một là vì chỗ tu hành, hai là Giatô - giáo là đạo của Tây, tức quan thầy của Thổ cho nên Thổ rất nể. Ở đây quả là một thánh địa, yên ổn tâm hồn được một thời gian, cầm bằng phơi nắng suốt nửa ngày bỗng gặp một tô nước mát, thêm dịp đâu lạ lùng, gặp được một bộ Vĩ dã thi tập của Tuy Lý Vương, do một tên Thổ già vơ vét một chiếc ghe nhà trí thức nào đó bỏ chạy, mua được với giá năm đồng (5$) không thì bác Thổ đã xé tơi làm giấy hút thuốc, đi đời một bộ Hán văn hiếm có (xem lại “Thú chơi sách” thuật đầy đủ hơn).
Ngày 7-2, bình bồng trên ngọn sông vắng Lá Banh (Chắt Đốt) thoạt gặp sếp Hên là thông dịch viên của hiến binh Nhựt, cũng bỏ chạy như mình, và không biết va có xấu với ai chăng, chớ với mình vẫn tốt, gặp lần nầy rồi vĩnh biệt sếp Hên luôn, kiếp con người buổi loạn ly còn rẻ hơn con trùn con dế. Ôi! Sếp Hên!
Ngày 10-2, chạy loạn mà tánh ham ăn ngon không bỏ, gặp giữa rừng già một chợ chồm hổm trên nước, thật sự là không biết bao nhiêu ghe thuyền bu xung quanh một chiếc xuồng ba lá, trên xuồng có một chảo mỡ sôi và một chị gái đầu gà đít vịt độ ba mươi tuổi, đang chiên và phân phát mau lẹ, một đồng bạc được ba con cò vừa đủ lông, rán mỡ vàng lườm, nóng hổi vừa thổi vừa ăn, còn khoái khẩu và đặc biệt hơn bồ câu ra ràng xa xỉ phẩm của bọn đài các nhóm cao lâu Chợ Lớn: Đại La Thiên, Thoại Quỳnh Lâm thời vàng son buổi trước. Cò con là thực phẩm không mất tiền mua của “sân chim” Lá Banh, mỡ heo rẻ rề, khen cho chị nông dân quê kệch xóm Chắc Đốt, lại trổ tài “ngự thiện”, biết tìm cách hốt bạc của bọn tản cư còn đột lốt phong lưu lỗi thời?
Ngày thứ hai 12-2, ngồi trong ghe nghe tin đồn xóm Bà Hương Chanh bị Thổ đốt, đến chiều có tin chắc chắn không bị đốt, quả nhiên tin đồn thất thiệt đời thuở nào vẫn có, và cái miệng con người nếu sớm biết câm thì hay biết mấy.
Gặp một chiếc ghe của Ba Oai ở Kế Sách đi ngang, truyền rằng kinh sấm dạy: đi lên thì sống, đi xuống là chết; ngặt thuyền mình đang trở mũi về Nam mới ngao ngán làm sao. Dòm lên bờ sông, cột nhà cháy còn đỏ om, càng tê tái lòng.
Ngày 15-2-1946, có người nhà ở Hoà Tú đến trao tay một giấy phép cho trở về. “Ai về nhà nấy, giặc đã yên”, giấy ký đề ngày 14-2-1946 của quyền chủ quận Phú Lộc (Đặng Hữu Nghiệp) sau lưng còn có mấy hàng chữ Thổ.
Ngày 16-2-1946, chống ghe từ Gia Hội (Chắt Đốt) về chỗ cũ làng Hoà Tú, bụng vững vì chắc “khỏi bị đốt rồi!” Xế chiều dọn đồ đạc xuống ba chiếc ghe cà vòm, hai chiếc của Bà Cả Tám cho mượn, một chiếc của anh Chủ Lỹ.
Ngày 17-2-1946, là ngày hồi quy, lòng phơi phới như trống mở cờ rung. Sáng sớm bảy tám người kéo ra chợ Hoà Tú ăn mỗi người một tô hủ tiếu các chú và uống mỗi người một tách cà phê sữa, nó ngon làm sao! Húp hủ tiếu không chừa cặn! Nút từ giọt cà phê đến sạch tách! Ôi, thứ đồ quen bơ sữa, hư thân? Thế mà lúc nãy, khi dưới ghe đi lên, đi ngang một lùm cây có một nhóm người đang dựng cột nhà, thấy bọn nầy rần rần rộ rộ đi, tưởng là bọn bạt ti zăn Tây đi bố, đã núp trốn trong cây, bọn nầy đi rồi mới dám ló ra, té ra người nhát người, các anh là lương thiện, chúng tôi đây cũng là lương thiện, khéo sợ nhau làm chi, chúng tôi nếu làm cho các anh sợ, chẳng qua là hổ giả hổ oai, con hổ có sợ người đã đành, bầy cáo như bọn tôi thế cũng có người kiêng nể, nghĩ cũng nực cười? Quả đúng: khi cá ăn kiến, khi khác kiến ăn lại cá!
Trưa ngày 17-2-46, tôi phải qua ấp Cây Gừa nơi có đồn lính Tây đóng để xin chiếu khán trên giấy phép chở đồ về chợ Sốc Trăng. Cùng đi có chị Sáu Lụa, sau là bạn trăm năm của Trần Kế Vĩnh, và nay đã mất từ lâu trong một tai nạn xe hơi chạy sau, xóc đầu vào đít xe bò chở tre và tầm vông, chị bị ngọn tre đâm vào mặt vào đầu nên chết tức tối. Đã nói đàn bà, đến Trời cũng phải sợ! Trong khi tôi ở nhà trước đang đứng xin Tây ký giấy phép và đang cắt nghĩa bọn bạt-ti-zăn Thổ hoành hành cướp bóc người Việt Nam, chị Sáu Lụa mon men xuống bếp, sáu trự Tây đang làm việc trên bu rô, cái lò nướng bánh bay hơi thơm phưng phức, chị Sáu không dằn lòng được, bèn dở nắp lò thấy sáu cái bánh bột mỳ nhân thịt, gọi bouchée à la Reine, bánh vừa chín, màu vàng khè bay thơm ngào ngạt, nhột mũi quá, chẳng lành thì chớ, chị ngó giáo giác, thấy vắng bóng người, thì lẹ như chớp, tay chị đã nhón lấy hai cái bánh và sẵn giấy nhựt trình cầm tay, chị gói lẹ làm một gói, rồi tỉnh bơ ra ngồi chờ tôi nơi băng trường kỷ kê ngoài lan can; khi tôi lãnh được giấy phép từ giã Tây ra về, vừa đi tới bờ mẫu, chưa ngoài hai chục thước, nghe tiếng chị hỏi nho nhỏ: “Dượng ăn không, Dượng Tư!”. Tôi đứng lại, chị phạch cái gói ra có hai cái bánh mời mọc cám dỗ ngon lành, mình mẩy tôi mọc ốc, mà tay vẫn bốc một cái bánh đưa vào mồm, miệng còn ứa ngốn vừa thốt câu nhân đạo: “Trời đất ôi! Bánh của Tây, chị dám ăn cắp, nó biết nó bắn thấy cha!”. Thay vì im, chị còn bướng bỉnh: “Bánh ngon quá hè! Phải chi miếng giấy lớn, tôi đã gói hết!”. Chị Sáu cũng may đã từ trần, phải chị còn, có cái gì mà chị không dám làm! Và người nữ cán bộ tên là Sáu Lụa, quê ở Bãi Xàu xưa, kháng chiến chống Tây như vậy đó!
Nhưng vẫn chưa hết nạn. Về tới nhà Chủ Lỹ, trời đã quá ngọ. Bốn lính Tây mình lông lá ở trầni trùi trụi, mặc quần đùi, nịt kè kè cây súng lục bên lưng, đang thả hồn theo mây theo, gió trên bộ ván, trước đây là tổng hành dinh của anh Chủ Lỹ nằm hút, bên vách trước mặt Tây, tôi đang lui cui mở tủ fri-gi-đe xem có gì ở trong. Bỗng tôi đóng cửa tủ lại, day mặt ngó bốn thằng mập đang ngủ vùi như bốn thây ma, tôi tỉnh hồn lại và lấy chăn tắm lật đật tôi ra nào phi tiêu nào bê rê mũ bánh dừa, nào túi đựng dao ba- nha may bằng lưng bìa da các sách quý của tôi, còn ràng ràng chừ mạ vàng: “Bulletin des Amis du Vieux Huế” V.H..., tôi biết Tây đang ngủ mê, tôi dồn hết vào chăn và êm ái ôm ra trước nhà nơi con kinh đang chảy xiết, tôi chuồi trọn gói vào dòng nước phi tang xong rồi tôi mới trở vô đánh thức mấy ông Tây, nhờ mấy ông cho phép dọn đồ lui ghe cho kịp con nước. Tôi còn giả bộ thân thiện biếu lại ba cuốn sách khiêu dâm như Satan condutt le bal, La garonne v.v..., cho mấy anh đọc chơi giải buồn... Tôi xin thêm được một xấp độ mười lăm giấy thông hành tạm ghi tên, tôi giả cớ tìm người khuân dọn, rủ hết anh em lớn nhỏ, bây giờ thế yếu, thà sớm thoát chốn nầy chờ dịp khác, mấy anh em nghe lời giả bộ người phu gồng gánh xuống dọn và theo ghe tôi về chợ Sốc Trăng rồi chia nhau giải tán, vuột khỏi bàn tay đẫm máu của lính Thổ tàn ác và lính Tây không kém ngón dâm dật, ưa hãm hiếp và cướp bóc có danh. Trong khi các anh em lo dọn, tôi lại giả đò đi tắm, kỳ thật là đi thu hồi cái hộp sắt đựng kim cương mà sau nầy vì giá trị quá lớn nên đứa gian phi đã quá mê và ẵm luôn vừa vợ vừa cái hộp sắt hiệu Fichet chứa đầy hột xoàn. Cơ khổ! Lúc tôi chôn vào bùn cái hộp ấy, tôi nhớ rõ ràng là dưới gốc cây dừa nơi ao tắm của Hai Vĩnh, và đúng mực nước mặt ao nầy. Thế mà hôm nay mò kiếm cả giờ mà không gặp cái hộp. Tôi tưởng đã bị kẻ trộm phỗng tay trên, nhưng sau rốt tôi tìm được thì cái hộp đã trồi lên cao hơn mặt nước cả tấc Tây vì lúc chạy và chôn đồ là trung tuần tháng mười một Ất Dậu (đầu năm 1946) và ngày nay đến lấy là vào tháng chạp gần Tết, trời bắt đầu hạn hán, nước sắc và mực nước xuống thấp hơn độ trước. Thảo nào, và báo hại vì đang nắng đổ mồ hôi nhiều và dầm dưới nước trót buổi, nên tôi bị cảm hết mấy ngày và vẫn mất vợ. Còn nhớ lúc ba chiếc ghe lui bến ông Tây xếp bót Hoà Tú tử tế, có cho một tên cai bat-ti-zăn Thổ theo hộ tùng, cai nầy tới mỗi khúc quanh sông Cổ Cò đều bắn súng đùng đùng, tôi khuyên đừng bắn vì phí phạm đạn dược, nhưng va vẫn không nghe, về sau tôi rõ lại va bắn để báo tin cho các bợm Thổ đừng xuất hiện kẻo khó lòng, vì va đã có lời dặn của chủ Tây, nếu để hơ hỏng, tôi có bề gì, chuyến về Tây bắn va nát óc.
Té ra hôm ấy mình gởi thân cho ăn cướp mà không hay biết. Đêm đó thức tới sáng, ngồi be ghe chịu cho sương sa gió thổi tôi về tới nhà bị cảm ho mấy ngày. Trong khi ấy người vợ trước của tôi, đau một chuyến thập tử nhứt sanh, một tay tôi tận tuỵ điều dưỡng, không kể dơ sạch, bổn thân làm cái việc đổ bô lau quét nhưng nay kể lể làm gì với người đàn bà bạc tình ấy, sống mười chín năn với kẻ nầy và sống hai mươi tám năm với người kia.
Tản cư lên Kế Sách (25-10-1946 đến 15-11-1946)
Ở Hoà Tú tản cư về, lại bị ở trong một thế kẹt. Tháng 2 năm 1946, Pháp đẻ ra “Hội nghị tư vấn Nam Kỳ”, mà phiên chớm khai mạc định vào 12-2-1946. Vừa trở về xin giấy định cư, gặp chủ tỉnh Barthel mời làm một chơn trong hội đồng nầy thay mặt cho tỉnh Sốc Trăng. Tôi giả đau từ chối khéo nên thoát nạn. Và người ra gánh vác để chết đáng thương, vì bị ám sát, lại là thầy cũ xưa dạy lớp tư (cours préparatoire) là ông Cao Đắc Lý. Ông nầy đã làm nhà mô phạm thì tưởng nên ở trong phạm vi dạy trẻ cho yên thân. Ông lại ra làm hương chủ hương cả làng sở tại Khánh Hưng, nội cái phát bông mua vải mua đường, vì thiếu kinh nghiệm hành chánh, ông đã bị bộ hạ bán đứng và mang tiếng (thầy pháp ăn mà thầy chùa chịu), nay lại nhận làm hội đồng tư vấn cho thực dân Pháp, thì dầu tu hành đạo đức như ông cùng không thoát búa rìu dư luận và của người kháng chiến; tình cảnh của ông, theo tôi, đáng thương hơn là đáng trách. Đó là cảm tưởng của tôi xét qua chút tình nghĩa thầy trò, chớ dư luận chung trong tỉnh, vẫn chờ một ngày kia, nguội rồi sẽ lấy bình lâm, công tâm soi xét.
Riêng tôi, tưởng một lúc “đánh ba búa Giảo Kim chơi”, không dè vì cãi lời thầy, “trót xuống núi lỡ rồi”, chúng nào để cho yên. Tôi cố giả dại qua ải, nhưng giả cũng không xong. Từ tháng hai đến tháng chín năm Bính Tuất (1946), tôi trở lại cái đời lêu lổng ăn chơi bài bạc, ấy là lỗi thời và có tội lúc quốc gia hữu sự. Bi cảnh cáo bốn ngày nếm gạo lức, nước phông-tên, chưa đủ; nay rục rịch hay tin kín “bên ta muốn “mời” ra Ngã Tư tiếp sức”, “bên nầy Tây sắp ép ra làm việc lại”, đêm nằm nát một lá gan tính không ra kế. Sẵn chị Hai Giang Văn rủ ren, nên nhận lời tản cư phen nầy lên Kế Sách xem cho biết cảnh vườn cây ăn trái, và cũng để tránh cơn gió mạnh: trở lại kiếp con giang hồ trải thân đãi khách nữa thì nhứt định không làm, nhưng biết làm sao từ chối với bên ta? Đã không còn trai tráng làm một Thạch Bernard, tuy có máu Tây mà chống lại Tây đến lính Tây ghê mặt; cũng không làm được như Paul Giang Văn, lẫy lừng mấy trận đánh binh đội Pháp lấy một cự mười thôi thì đi theo chị Giang Văn nầy là má của Paul, gọi tránh gỉó vừa lánh mặt khỏi làm tay sai cho Pháp và như vậy tuy không ích gì cho bên ta, nhưng cũng được khỏi tiếng giúp giáo cho giặc, tuy không khỏi tội “lãnh đạm với thời cuộc”. Nhưng đi tản cư kỳ nầy mới biết là lếu. Chỉ chạy nhà nầy qua nhà nọ cho chúng nuôi cơm, thọ ơn người vẫn là khó trả, hay là như vậy mới đúng với câu Tử vi thầy Tàu xem lúc bé: “Có phần ăn cơm bá tánh”! Còn nhớ lời Ba tôi nhắc lại việc bói số nầy, nghe câu ấy, ai cũng khen tôi có lộc ăn, duy Ba tôi nói gọn: “Số ăn mày không khác”. Cùng đi chung tản cư trong một chiếc ghe lồng khá rộng, gồm có: chị Giang Văn, vì anh ấy ở sẵn trên vườn đợi mình, vợ chồng một bạn làm y tá tên Châu, và hai đứa chúng tôi đủ vợ đủ chồng. Vợ chồng anh Châu đi được bốn ngày thì trở lộn về chợ, vì một hôm chị tâm sự với tôi trước khi tản cư chị giấu nữ trang trong một hộp thiếc thòng xuống giếng sâu sau nhà. Tôi hỏi: Còn sợi dây? Chị đáp sợi dây để nguyên. Tôi nói: Thế là chị “dâng cơm cho ni (ni là mầy)!”. Chị chưa hiểu, tôi mới giải: Chị giấu cái hộp mà còn sợi dây nhủn nhẳn, chị đi rồi, đứa nào còn ở lại, ra lấy nước dùng, thấy mối dây bèn kéo lên thì cả gia tài của chị cúng cho nó! Nghe tôi bàn làm vậy, vợ chồng anh Châu ngủ không được và sáng ngày lật đật không đợi giã từ, quá giang ghe quen rút êm về chợ Sốc Trăng, cũng may, không ai để ý chị Châu giấu vàng và vàng còn y nguyên, năm sau gặp lại nhau trên Khánh Hội (Sài Gòn), kể lại chuyện cũ, chị mắc cỡ, nói câu nửa chừng: “Mắc dịch anh, chuyện cũ nhắc hoài!”.
Còn lại vợ chồng tôi, ban đầu ở nhà vườn chị Giang Văn, là một túp lều chứa hai tim vàng còn chật huống hồ chứa vợ chồng chủ nhà thêm chứa vợ chồng tôi. Nhưng ở vườn chị Giang Văn cũng không yên thân, có tin báo động Thổ sắp đến cướp phá.
Ngày 1-11-1946, là lễ các Thánh (27 tháng 9 ta), đề huề cùng chị Giang Văn khăn gói đùm đề chạy qua tá túc nhà Bảy Thà là em của Từ Ngươi Đông, bạn học cũ. Chị Giang Vãn chiếm giang san là một giường Hồng kông có lò xo (ressort), vợ chồng tôi khẩn một bộ ván ba rộng chán. Nhà Bảy Thà ở về xóm chợ, nên mỗi sáng lại cũng ra tiệm các chú cà phê xíu mại, xá xíu bánh mì không khác lúc ở chợ Sốc Trăng. Bảy Thà là tay thín cẩu lúc trước, nay tiếp đãi tử tế, biết thuở nào báo đáp ơn tốt nầy. Sau gặp lại trên Sài Gòn, Thà làm sốp phơ, nhưng phong độ cũ không mất. Từ năm 1972, nghe nói Thà thôi làm tài xế và lui về Kế Sách xây nhà nhỏ y chỗ cũ nối lại nghiệp ông bà. Biết thuở nào chúng ta gặp nhau. Trước đây gặp một lần thì Thà đã đầu bạc trắng còn tôi thì như đèn treo trước gió, đã bảy mươi tư tuổi đầu (1975).
Riêng anh Từ Ngươi Đông, năm ngoái còn gặp anh xách gậy dạo chơi vùng chợ Tân Định, mắt lờ răng rụng ráo. Nãm nay, nhứt là từ lễ mừng Độc lập, dân ta toàn thắng, hết hạn xiềng xích thoát ách kìm kẹp Mỹ Mẽo, cũng chưa gặp và biết anh có còn để bắt tay mừng, thoả kỳ vọng ao ước năm xưa. Anh Tư Đông ôi!
Ngày 2-1l-1946, giữa trưa lén làm chúc ngôn đề phòng bất đắc kỳ lử. Nay xem lại không khỏi buồn cười, vì người thụ hưởng chỉ định đã ôm cầm sang thuyền khác.
Ngày 3-11 (thứ bảy), anh Huỳnh Vạng Thân, cai tổng kiêm chủ quận Kế An lúc ông Đảnh về làm chủ tỉnh Sốc Trăng, mời đãi cơm tại nhà và viếng vườn sầu riêng đã có trái và vườn trồng quít xiêm, mỗi năm hoa lợi trên mười vạn. Đến mùa có khách trú đến mão, mua trụm quít trái trên cây, nằm dưới gốc chờ chín và canh trộm lén. Trái sai nhành, lá xanh xen trái đỏ trái vàng, lúc ấy đứng dưới gốc bắt thèm, cảnh nhà vườn giàu hơn nhà làm ruộng, nay thời ai ai cũng trắng tay, hoạ may từ đây độc lập sẽ xây dựng lại mấy hồi. Nhưng cố nhân Huỳnh Vạng Thân có còn chăng? Chung quanh không ai biết mà trả lời!
Ngày 8-11-1946 ghé nhà Trần Phong Ngàn. Đặc biệt anh viết chữ Hán rất đẹp. Thấy anh bắt nhớ người cha sanh thành, tóc bạc phơ thường ngồi ghế tre trước cửa nhà số 31-33 đường Đại Ngãi khi thì sử dụng cây đờn Tam (Tam huyền), khi khác hút thuốc Gò xem người qua lại, lòng còn gởi đám mây Hàng, nhớ nhà ghê! Vợ anh Ngàn là chị Thu, chị của Từ Ngươi Đông, trước học lớp nhứt trường tỉnh, cùng một lớp với chị Võ, chị của Nguyên Văn Truyện, Nguyễn Văn Kế và kẻ hèn nầy. Ngàn tưởng tôi giỏi thơ, ngâm vang nhà và bắt tôi hoạ lại. Tôi nói dốt thơ, Ngàn tưởng tôi khiêm nhường và vẫn không tin.
Ngày 10-11-1946 (tháng 10 Bính Tuất), dự tuần lễ vàng tại Kế Sách. Nhà làng, gọi nhà việc (nhà để làm việc), hoặc nhà vuông (vì kiểu vuông vắn y nhau), khi khác gọi công sở, nay đổi lại là trụ sở Uỷ ban. Buổi nhóm có đủ mặt thân hào và anh em mới tháng trước đây làm chung tại Sốc Trăng dưới danh từ “Uỷ ban ban ủng hộ kháng chiến”. Mấy ngày rày không tìm ra cách trả ơn vợ chồng Giang Văn, nay thừa dịp nầy, cởi chiếc nhẫn đeo tay và chiếc nhẫn của vợ, dâng vào hộp tuần lễ vàng, một chiếc gọi đóng góp mọn mảy phận nầy, một chiếc gián tiếp trả ơn chị Giang Văn, tuy vẫn biết chị không là Phiếu mẫu và kẻ hèn nầy còn xa và làm sao sánh được người xách giỏ xử Hoài âm. Chẳng qua là một ví dụ vụng về của một tên gàn ham dẫn sách.
Mướn ghe đi ăn cơm dạo thiên hạ thét cũng thấy thẹn, bèn xin về chợ như cũ và ghe về nhà ngày nào nay cũng quên. Duy có ghi rõ mỗi ngày tiền mướn ghe chỉ có một đồng bạc, tiền cơm tiền nước chủ thuyền không kể, thiệt là giá rẻ quá sức tưởng tượng, không như tháng tư Tây năm 1975, đồng bào chạy từ miền Trung vào Sài Gòn, kẻ mướn trọn chiếc thuyền hay tàu trên bạc triệu, kẻ khác chỉ một thân tay xách mà trả giá trên mấy trên ngàn, hồi tưởng lại một phần vì đồng bạc rẻ như bèo, mà một phần lớn là người vẫn bóc lột người, và biết chừng nào đồng bào mới giác ngộ bỏ tánh tham nhũng, biết cứu người lâm nạn và biết không lợi dụng những cơn nguy cơ ấy mà lột da xẻ thịt người thất cơ.
Bài học khôn của cuộc tản cư nầy là từ đây không đi theo các chị nữa, mà cũng không nghe lời các chị nữa. Tính coi bữa ra đi ghe chèo trên ruộng ngập nước, khoảng Phú Nổ có thèo lèo ngon, bỗng có tiếng la hét từ xa, chị Giang Văn ngồi trên thuyền oai như Tôn phu nhân, dõng dạc hét bảo tôi xách súng nhảy xuống ruộng chờ Thổ đến thì bắn, tôi vâng lời nhảy xuống nước, hỏi bì đạn đâu thì chị nói không có, xem đi xem lại thì cây súng là loại súng gió bắn se sẻ, có khi đạn làm bằng hột đậu xanh. Cũng may Thổ không dám đến cho nên ngày nay tôi còn đây để thuật lại một chuyện anh hùng rơm. Leo lên thuyền, ủa lên ghe, trực nhớ lại câu hát Miên và cùng nhau cười ngả nghiêng ngả ngửa. Thổ Sốc Trăng, những lúc đua thuyền, hát rằng:
Kra bây xi srâu, bon mành xâu hen đenh
Kra bây dơ chênh, bon dênh oi trây mơ!
Dịch là:
Con trâu ăn lúa, anh không dám đuổi
Con trâu đi rồi, anh đuổi cho nàng xem.
Con trâu đang ăn lúa là con trâu đói và hung dữ, đuổi nó chém toi mạng. Con trâu ăn no là con trâu hiền, dẫu la ó sau đít nó, nó cũng vẫn đi và không quay đầu lại. Tôi nói anh hùng rơm là vậy.
Anh Giang Văn và tôi chỉ là người lối xóm. Lúc bình thời, nhà anh là một căn phố lầu ở đường Đại Ngãi, gần nhà Di Ký, đối diện và xéo xéo nhà Ba tôi số 31-33 cùng một con đường. Chị Giang Văn là người có bóng sắc, Tây lai biệt dạng mũi cao mắt sáng, nên sanh con đều lịch sự. Con trai là Paul, chết cho nước trong buổi đầu kháng chiến chống giặc Pháp. Vợ chồng Giang Văn trước ở chợ Bãi Xàu, sau dọn về đường Đại Ngãi bán đồ tạp hoá, quen gọi Bazar Giang Văn. Khi có Nhựt lật đổ chánh quyền Tây, nhứt là có Uỷ ban ủng hộ kháng chiến chúng tôi mới thân nhau và tình càng khăng khít từ độ chạy tản cư lên Kế Sách. Sau đó xa nhau, đến khi tôi chạy lên Sài Gòn, bỗng hay tin anh mất và mang theo một bầu lâm sự nan giải, anh tự vận hay tự tìm cái chết vì không muốn làm luỵ gia đình với một chứng bệnh nan y, thổ huyết. Chị Giang Văn mới mất gần đây, vì dâu trước của chị bà C.V.V, tuy có chồng khác, nhưng nuôi chị đến mãn đời.


* * *


Lìa Sốc Trăng chạy tuốt lên Sài Gòn, ngày 7-7-1947.
Tôi không muốn rời Sốc Trăng là nơi nhau rún, quê cha đất tổ, lại nữa tâm thân hư hỏng lê gần khắp lục châu, ăn cơm gần khắp lục tỉnh, năm 1947 cũng đà mỏi cánh, ỷ y có hai trăm mẫu ruộng tốt ở làng Hoà Tú, tuy rằng ruộng bên vợ, nhưng công lao khó nhọc không có tôi thì gia đình họ Nguyễn chẳng bao giờ hưởng được gia tài bà Phủ An mà di chúc một tay tôi viết tôi làm, vả lại ruộng do tôi và Thị Tuyết đồng đứng tên trong địa bộ, nhưng ngờ đâu sau nầy hồ tan keo rã, thôi thì mình còn hai tay, tự lập lấy thân, nên mặc cho bà ấy ăn trọn. Từ tản cư ở Kế Sách về, vợ thường đi vắng, dối rằng lên Sài Gòn đòi liền bán xoài còn thiếu, thật ra tôi quá tin nào biết sự nhị tâm của một người đã chung chạ từ mười chín năm, tuy không con nhưng cực khổ có nhau và lúc lâm bịnh một tay tôi nuôi dưỡng. Ban ngày tôi thường đi chơi mạt chược giải khuây nơi khách sạn với các bạn Huê kiều, nhứt là với mấy a-múi xẩm con nheo nhẻo. Đêm đến lật đật ăn cơm chiều thật sớm rồi qua ngủ nhờ nhà anh vợ là nhà lầu bà Phủ An, nơi đây kiên cố và có một toán lính Tây gác đêm, vì lúc ấy có nạn bắt cóc và bài trừ Việt gian, đêm nào tối trời và thỉnh thoảng ngoài ngã Tư thường vô chợ, chúng tôi dầu biết chẳng có làm gì nên tội, nhưng đèn nhà ai nấy sáng, tránh voi không xấu mặt. Và vẫn tánh như khó chừa, qua ngủ, nhờ bên nhà lầu bà Phủ Anh còn nhiều cuộc vii chán, cháo gà, cắt tê trâu, thín cẩu “chà nhẹ nhẹ”. Cùng lúc đó các công chức được lịnh vô ngủ Toà bố, thì đâu có ngủ mà vẫn thức sáng trắng với canh bài con bạc, vợ con cuối tháng không tiền đi chợ. Thiệt là hư hỏng?
Một buổi trưa nọ. Độ trước ngày 7-7-1947 lối mươi bữa, tình cờ tôi đến Phòng ngủ Tư Cảnh, trên đại lộ Kinh lấp xéo xéo dãy phố bà Phủ An, bỗng gặp một thầy tướng Tàu còn trẻ, nói được tiếng Việt, khi thấy tôi, y nói khan: “Sắc diện xấu, nếu không sớm cao chạy xa bay, e sẽ mắc nạn gần”. Trong bụng bán tín bán nghi, tôi hỏi gượng: “Nạn gì?” - “Nạn bị bắt không bên nầy thì bên kia! Bên nầy là bên nào, còn bên kia là bên gì? Ông hiểu lấy? Tôi thấy sao nói vậy. Nếu ông chậm trễ, qua khỏi rằm, e bít lối đi”. Tôi giã từ, biếu thầy năm đồng nhưng thầy không lấy, và rằng: “Tuy vậy, ông còn trở lại. Nếu sau nầy lời nói tôi có linh nghiệm; ông sẽ thưởng tôi?”. Thế là tôi nhứt định phái đi.
Lúc ấy tôi ho khúc khắc, một vì lo rầu việc nhà, một lẽ khác vì thuốc men không có. Tánh tôi vốn kỹ, muốn khứ lai minh bạch, nên liền đó tôi viết ít hàng gởi ra Ngã Tư xin phép đi Sài Gòn dưỡng bịnh, bữa sau được giấy trả lời vỏn vẹn hai chữ “cho đi”.
Vững bụng rồi, buổi chiều tôi vào Toà bố từ giã bên nầy là B, chủ tỉnh B, do dự, muốn cầm ở lại, viện cớ nếu để tôi đi sẽ làm nao núng nhiều người. Nhưng tôi nói thẳng: “Ở đây không có đảm bảo”. Tôi kiếu từ, đi mua vé xe, chỉ còn một chỗ chót. Tối, tôi về nhà, từ giã cha già, tội nghiệp thấy ông ứa nước mắt, tôi cầm lòng không đậu. Tôi giao việc nhà cho em là Quang, vì lúc ấy, cảnh còn trong xa, còn Vinh đã đền xong nợ nước, thân gởi ngoài cù lao, chưa biết chừng nào mới được đem xác về. Sáng ngày thui thủi xách một gói nhỏ quần áo ra xe, là một chiếc Citroen đã cũ kỹ, bảy chỗ ngồi, mang số C.P.145. Tôi ngồi băng giữa sau lưng tài xế những hành khách kia đều lạ, phụ nữ và trẻ con sau rõ lại là gia đình ông Bang Tư (Lưu Liễu), ăn mặc theo tàu, nói giong Triều Châu. Lúc ấy làm dân ông Tưởng thống chế là sướng nhứt đời ra đường không ai dám tra xét, vì tướng Lư Hán theo lịnh của Đồng Mình tước khí giới của hàng binh Nhựt vùng bắc tuyến. Thiếu chi đàn bà Việt Nam cắt tóc, diện theo xẩm buôn bán chợ đen chợ đỏ, làm giàu ngang xương, đến khi gặp lính Tây hãm hiếp không chừa, khi ấy họ mới bớt việc giả Tàu giả khách. Và quả lời thầy tướng tiên tri rất đúng. Xe tôi là chuyến áp chót qua khỏi ngày rằm tháng đó, thì đường Sốc Trăng lên Sài Gòn nghẽn lối, vì nhiều cầu vùng Phụng Hiệp bị phá hư xe không qua được, và nếu tôi còn bận bịu ở lại dưới thì có lẽ cuộc đời tôi đã xoay hướng khác, cố nhiên không giống như ngày nay, âu cũng là số mạng hay, tiền định. Và không biết xoay nên hay hư để sa lầy thêm nhiều?
Mà chuyến ra đi nầy, nhớ lại, cũng cam go không xiết kể, tưởng đã không đi đến Sài Gòn. Xe chạy vừa tới Phụng Hiệp, thoát được bót canh của lính Tây, nó xét giấy, nhìn mặt từ bộ hành rồi ra hiệu cho đi, bỗng cách không hơn một cây số ngàn xe ngừng lại vì có một nhóm thanh niên ra chận. Phen nầy nói ra sao? Một anh trai độ mười lăm mười sáu tuổi, trên tay lo le một quả mãng cầu sắt (lựu đạn), thò đầu vào cửa xe, không ngó người nào, lăm lăm chỉ ngó tôi, hỏi:
- Ông là ai?
Nghe hỏi mình mẩy tôi nổi ốc, nhưng gượng làm tỉnh:
- Tôi là Vương Hồng Sển.
- Ông đi đâu?
- Tôi đi Sài Gòn, đau đi uống thuốc.
- Thằng Cảo chết rồi, anh biết không?
Tôi nghe gọi bằng anh, lập lức hoàn hồn lại, và thằng Cảo là đứa em vừa hy sinh cho nước, tôi ngó ngay người ấy mà rằng:
- Tôi đã biết tin đó.
- Thôi, anh Hai đi đi, và chúc anh mạnh giỏi. Tại tôi nhỏ, anh không biết là ai, chớ tôi biết anh dư. Tô là bạn của Cảo, mỗi ngày đi học đều có ghé trước cửa nhà anh. Thôi, xe chạy đi!
Cả xe đều nhẹ nhõm, bác tài xế sang số mau mau miệng lầm bầm:
- Không có ông thì kẹt nặng.
Xe chạy ngang chợ phố Cần Thơ, không dám ghé vì sợ trễ chuyến đò. Qua khỏi bấc Cái Vồn, vừa chạy được vài cây số lại gặp một trạm người mặc áo vải đen (Hoà hảo). Xét hỏi giấy tờ, đếm từ tấm giấy trong ví, cũng may không sờ mó trong thân vì tôi có giấy một mớ nữ trang đem lên vợ. Xe chạy một đôi mới biết đó là binh lính của ông Năm Lửa, đóng ở Ngã Ba, mới đây còn gọi là Ngã Ba Bà Năm, sau cấm tiệt không cho gọi làm vậy vì có người cắt nghĩa “Ngã ba ống quần”.
Qua khỏi tay dân quân Hoà Hảo có tiếng là thích ép người chạy nạn phải thuộc hay biết một vài câu kinh mới buông tha, cũng may những người tôi gặp đều hiền và biết điều, hay là lời đồn kia là lời đồn huyễn, chuyên nói xấu người khác đạo? Đến bến phà Mỹ Thuận, thấy có trật tự khá, vì đây là địa điếm quan trọng chặn hai ngả thiết yếu, đường về Hậu Giang và đường đi Châu Đốc, Long Xuyên và Sa Đéc, nên trấn một thiếu uý Tây, có chút học thức, tránh được nạn hối lộ đút lót. Xe tuy khá đông, nhưng lên xuống đò ngang có thứ tự và qua sông suôn sẻ. Lòng mừng được một đỗi, xe chạy bon bon và lướt qua cầu An Hữu, rồi Cái Bè, duy khi đến Cai Lậy thì gặp một chướng ngại bất ngờ tưởng đã không kịp lên tới Sài Gòn trước bảy giờ tối là giờ thiết quân luật. Có một tên ba-đá (soldat) nhừ nhừ say, một hai muốn bắt chúng tôi xuống để nó mượn xe trở lại An Hữu gọi rằng đi thăm một thằng bạn hữu rồi sẽ trả xe cho đi thong thả. Lúc ấy trời đã chênh chếch ngả bóng về chiều, độ gần mười lăm giờ có hơn, bất đắc dĩ tôi phải dùng cách xuống nước, nài nỉ ôn hoà, cắt nghĩa êm ái rằng đường tới Sài Gòn còn xa, anh ta còn có thể đón xe sau còn nhiều chuyến nữa, và nếu dung tha chúng tôi đi trót lọt thì có ơn lớn nào bằng. Cũng may không biết tại “tiếng Tây” của tôi chưa “rỉ sét” còn đủ cam ngôn mỹ từ làm xiêu lòng ông ta, hay là nhờ một cạc-túc (cartouche) thuốc Bách tét (Bastos), hai chục gói chớ không vừa, của bác tài đem đặt trên ghế bô chỗ nó nằm mà tên say nầy gật đầu ra dấu hiệu “phóng sanh” Chúng tôi khấp khởi mừng bằng đầu thai một kiếp mới, lật đật lên xe dung rủi..Sau khi xe chạy đã xa nghe bác tài rủa một câu chỉ đủ lọt tay tôi:
- Ông coi? Đ.m! mua được năm bịch thuốc bao xanh, tưởng đem lên Sài Gòn chộ một chút lời, không dè mãi cúng dọc đường cô hồn các đảng mà cụt vốn. Chính thằng ban nãy là con hạm lớn nhứt, hôm qua đây nó đòi đốt xe tôi vì tội tiếp tế cho địch, cũng may bữa nay nó say nên quên phứt không nhìn ra tôi, và nó dốt không biết đọc sô xe ông à? Lại nữa ông biết tiếng Tây giỏi quá, coi bộ nó phục ông lắm, nên mới thoát khỏi tay nó với một bịch thuốc rẻ rề. Tôi cũng chạy vài chuyến nữa rồi kiếm nghề khác nuôi vợ con, chớ tình hình như vầy còn cầm tay lái e có ngày “mất xe mất mạng”. Xe lên tới Sài Gòn ghé chợ Bến Thành vô sự. Tôi lên xe kéo, nhờ kéo về dãy phố đường Aviateur Garros (nay Thủ khoa Huân), tìm số 75 nhà bà Hai Hẩu, xin cho tạm dung thân một thời gian để kiếm chỗ định cư.
Từ ngày 14-7-1947, lại một phen nữa, một gói một xách, tôi từ giã Bà Hai và dời về ở đậu nhà anh Tư Pierre Nguyễn Thuận Thiên, mà chúng tôi thường thân mật gọi nhau là anh Tư Ve, vì anh là bạn ve chai có hạng, lấy rượu chát làm nước, và Ve là do chữ Pierre nói trại. Chị Ve, lên tộc là Emilie Penne, không ai khác hơn là bạn trăm năm của ông Nguyễn An Ninh, nhưng nửa đường chia tay. Vợ chồng anh Ve hào hiệp có tiếng, thêm chị là người đồng hương, nên tôi không ngần ngại đến ở chung để mong gặp người đầu óc, nhưng rủi cho tôi, những khách làm chánh trị như Lê Văn Trường (nha y sĩ) tôi ít gặp, và vì số hư đi đến đâu cũng hoàn hư, khiến tôi chi gặp toàn khách tay bài con bạc, khi kéo bài oắt, khi đánh cắt tê cóc keng, khi dà-dách, khi xì-phé chạy gạo, chơi để giết thì giờ, chơi để quên thời sự. Nay đem lại những bạn như Nguyễn Văn Công (hãng Denis Frères), Cao Thượng Thinh, trong bộ biên tập tờ bác do Lê Văn Trường chủ trương, thì đã ra người thiên cổ, còn lại như Etienne Penne và chúng tôi, thì đã chia tay mỗi người có một số phận khác nhau.
Một điều nên nhắc là nay nước nhà đã độc lập, nếu cần dựng ia nhắc chuyện cũ, thì tưởng nên gắn một tấm bảng đồng nơi đường Nguyễn Huệ (Charner cũ), nơi trụ sở năm xưa của nhà khách sạn Chiêu Nam Lầu của người cô ông Nguyễn An Ninh, là nơi tụ hội khách làm chánh trị của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục, và cũng nên gắn một tấm bảng đồng khác nơi số 34 Bonnard nầy, là nơi còn dấu chân ông Nguyễn Hữu Thọ buổi thiếu thời, lối năm 1946-1947 vậy. Một người khác, không biết nay có còn mạnh khỏe chăng, là bạn Võ Văn Nhung, cựu giáo viên ở Sốc Trăng, có tên trong bộ biên tập quyển “Lịch sử thủ đô Hà Nội” (Viện sử học Hà Nội xuất bản năm 1960), đi tập kết từ lối năm 1946 nhưng nay sao chưa thấy trở về?
Qua ngày 19-7-1947, tôi mua được vé máy bay (giá 50 đồng) cho vợ bay về Sốc Trăng, ngờ đâu từ đây, con cá lặn biệt tăm, con chim bay không trở lại. Con người bạc tình ấy, khi nắm được hộp nữ trang quý giá, đã ôm cầm sang thuyền khác. Sự thật, khi trở lên, nàng có hỏi tôi muốn giữ hộp đựng mấy trăm hột kim cương do bà Phủ An để lại cho hai tôi ấy chăng? Nhưng lúc ấy, thân ăn gởi nằm nhờ nhà anh Ve, tôi không muốn có sự rắc rối cho bạn nếu rủi ro bị mất cắp, nên tôi không nhận giữ hộp của báu làm chi. Và quả thật, kiến tài ám nhãn, chẳng những tôi mất của tiền lại mất luôn vợ từ đó. (Án ly dị tại toà Sài Gòn xử ngày 7-7-1958). Nhưng thà như vậy mà rảnh tay! Có lẽ cuộc dứt tình đã khởi sự từ sau tản cư Hoà Tú trở về, nhưng vì tôi ngu tối nên không để ý, và khi thu hồi số của thì lòng tham con người càng mau xúi giục sự phân ly.
Ngày 31-7-1947, gặp Năm Sa Đéc đã quen từ lúc làm việc ở Sa Đéc, trước là nhân ngãi, nay ra đá vàng. Hai lần bị phụ tình, nay mới thiệt ban trăm năm lại không làm hôn thú. Nhưng đây mới là tình thật.
Tháng 10-47, dọn từ nhà anh Ve lên ở với Năm, một căn nhà lá, trên đất Thầy Sáu, xóm Cù Lao, đường Võ Di Nguy nối dài.
Ngày 3-4-1948, được cho vô làm trở lại nơi Viện bảo tàng, ăn lương công nhật, tính theo lương thông phán hạng nhì. 1.173$00 mỗi tháng và kể từ 1-4-1948 (số lương tuy ít, nhưng đủ dùng, nhờ vật giá rẻ, tiền phố 300$, đi chợ mỗi ngày 1$ đủ ăn, một vịt quay 40$)
Tháng 6-1948 có bố ráp tại xóm Cù Lao, lính Tây bắt cả xóm ra ngồi ngoài sân, trong lòng sợ có người lấy mất chiếc xe đạp Peugeot của bác sĩ Sang cho mượn làm chân, cũng may lính Tây cho lãnh xe lại, không lấy. Tuy vậy tiền hung hậu kiết, vì nhờ nạn bố ráp nầy, mình xin được Sở Canh nông cho phép cất một căn nhà lá tạm (giá 1.800$00, vừa công và vật liệu, cá cần đóp và đòn tay tạp). Tuy là nhà lá nhưng ở được đến năm 1953 mới dọn đi, vì nơi đây là hạnh phúc nhất trong đời tôi, vừa còn trẻ, thêm sanh nơi đây một đứa trẻ duy nhất chào đời ngày 15-1-1951 đặt tên là Vương Hồng Bảo.
Ngày 2-2-1953, dọn về nhà mới xây dựng tại làng Bình Hoà, ấp Hoà Nhơn, tỉnh Gia Định, là nơi cư trú cho đến nay. Xác nhà đã cũ trên một trăm năm, trên cửa còn chạm năm tạo lập: GIÁP DẦN NIÊN (1954).
Xác nhà nầy mua giá 6.500 bạc, giấy bán đứt đề ngày 23-2 năm 1951 lập tại Phú Xuân Hội (Nhà Bè), có thị chứng trước mặt làng ngày 30-1-1951. Chở về Bình Hoà, xây dựng lại với vật liệu cũ từ 28-9-1952 tới 2-2-1953, hoàn thành, phí tổn tính chung là 18.826$.
Cất trên sở đất diện tích 964 thước vuông (Bằng khoá II số 1.392 ngày 11-3-1965, tờ đoạn mãi lập trước chứng khế F.Fays ngày 6-11-1952, ghi trước bạ ngày 8-11-1952, bộ số 315 trương 6, số 37giá mua 20.000$00).
Đây cũng là một duyên phần gần như tiền định. Một lần xin cất trong Thảo cầm viên, sau Viện bảo tàng và hứa khi mãn phần sẽ hiến Chánh phủ, nhưng lời xin không được chấp thuận. Kế đó xin với Đô thành Sài Gòn cho cất trong vườn Tao Đàn, khi lâm chung sẽ cho luôn Đô thành vừa nhà vừa từ khí thập vật, nhưng cũng chẳng ai nghe, nay xây cất được trên sở đất của mình làm chủ, sau có trăm tuổi thì con thừa hưởng, phải chăng đây là duyên phần tiền định như trên đã nói.
Mấy phen gặp biến cố: Mậu Thân (1968), Nhâm Tý (1972), và Ất Mão (1975) đều thoát khỏi nạn binh đao, thêm nữa, nếu xây cất trong Thảo cầm viên và vườn Tao Đàn, chi cho khỏi nạn cướp phá của Bình Xuyên và lính Nùng, tôi nói có duyên phần là thế.